Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạn tự hành”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
n Đã lùi lại sửa đổi của Tnt1984 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của TuanminhBot |
||
Dòng 1:
{{Cần biên tập|
{{chú thích trong bài}}
'''Missile''' là những đạn tự di chuyển đến mục tiêu và tác động vào đường đi trong khi di chuyển để hiệu chỉnh, bắn chính xác.▼
▲'''
Missile khác với đạn thường ở chỗ đạn thường bay theo đường đạn và không tác động vào đường đi. Missile có độ chính xác ở tầm xa lớn nên càng ngày nó càng thay thế nhiều cho đạn thường, nhất là khi sử dụng để tấn công các mục tiêu ở tầm xa.▼
▲
==Từ nguyên==
==Phân biệt
Có nhiều loại vũ khí được đài báo gọi quen là tên lửa song thực tế chỉ là
Các ví dụ khác về nhầm lẫn giữa
Trong các báo cáo quân sự tiếng Việt ít dùng từ tên lửa. Ví dụ, tất cả các SAM-2, A72, B72, P15... là những
==Mô tả==
===Cơ chế đẩy===
====Các cơ chế đẩy của
Động cơ tên lửa là động cơ phản lực phụt chất đẩy [[:en:propellant|propellant]] ra sau mà không hút cái gì vào, các thành phần chất đẩy được đạn mang theo. Máy đẩy engine là thiết bị sử dụng động cơ motor đẩy đẩy đạn bay, trong trường hợp tên lửa thì máy đẩy và động cơ là một. Ở thiết bị bay, máy đẩy chỉ phân biệt rõ với động cơ trong trường hợp dùng các động cơ đốt trong hay tuốc bin kéo cánh quạt ngoài propeller (tiếng Ânh và các tiếng châu Âu dùng 1 từ này để chỉ cả hai cánh quạt ngoài của máy bay và chân vịt tàu thủy, đúng nghĩa là "cánh đẩy"). Hiểu cho đúng, thì động cơ chỉ là máy phát động, ví dụ động cơ tàu thủy thường là động cơ đốt trong, còn trên tàu thuỷ-ví dụ thế-thì máy đẩy bao gồm cả động cơ, truyền động, trục cái, chân vịt.... Khi đạn sử dụng máy đẩy-động cơ tên lửa thì đạn cũng được gọi là tên lửa, ví dụ đạn SAM-2 ta dùng, gọi đúng là đạn như các báo cáo quân sự, cũng có thể gọi là tên lửa. Trên thực tế, các
Ngày nay có nhiều đạn sử dụng các loại máy đẩy máy bay. máy đẩy máy bay là loại máy đẩy phản lực hút không khí vào làm chất oxy hóa và chất đẩy. Máy đẩy loại này chỉ mang theo chất đốt-nhiên liệu-fuel. Phần lớn khối lượng chất đẩy phụt ra sau là không khí hút vào, chất đẩy do đạn mang theo chỉ chiếm một vài phần trăm. Phần lớn các chất đốt của loại động cơ máy bay này là chất lỏng, thường là dầu khoáng. Hiện nay đã có nhiều đạn sử dụng chất đốt rắn, được đúc như máy đẩy tên lửa dùng chất đẩy rắn, nhưng khối nhiên liệu rắn của máy đẩy không chứ chất oxy hóa mà nó cháy bằng không khí chạy dọc lỗ rỗng. Chính vì thế, đạn dùng máy đẩy máy bay thích hợp cho những đạn không bay nhanh quá-giới hạn ở M3, và có tỷ lệ thuốc nhồi đầu đạn hữu ích cao hơn nhiều. Máy đẩy dùng không khí kiểu máy bay cũng không dùng được cho các đạn bay theo quỹ đạo đường đạn, thường dùng cho
Động cơ tên lửa không hút không khí do đó bay được ở quỹ đạo cao, nhưng khi đẩy đạn có cánh không bay được xa, ví như P-15. Ramjet là động cơ dùng không khí đơn giản, nhẹ, rẻ, gọn... nhưng chỉ hoạt động được ở tốc độ cao, động cơ này không dùng tuốc bin nén không khí mà dùng vận tốc không khí đập vào của hút, thông thường, động cơ tên lửa rốc két dùng đẩy đạn xuất phát gọi là động cơ khởi tốc, sau đó đạn có thể bay với các loại động cơ dùng không khí khác, ramjet ứng dụng thuận lợi cho các đạn tốc độ cao như M2 đổ lên. Turbojet là động cơ dùng tuốc bin nén không khí nhưng không phân luồng, toàn bộ không khí được nén vào buồng đốt. Turbofan là động cơ có 2 tầng máy nén (mỗi tầng máy nén gồm nhiều tầng tuốc bin nén), tầng trước là fan, không khí qua fan được chia thành 2 luồng, một luồng phụt ra sau tạo lực đẩy, một luồng được nén tiếp vào buồng đốt sinh công đẩy trục tuốc bin chạy, turbofan có lượng thông qua lớn nên có lực đẩy mạnh ở tốc độ thấp mà không tốn nhiên liệu, thường được dùng cho các đạn dưới âm. Một số đạn dùng động cơ lai ramjet-turbojet, khi tốc độ đạn đã cao thì ramjet hết sức đơn giản mở ra và hoạt động, cho lực đẩy lớn.
Hàng 38 ⟶ 40:
Đạn homing ([[định hướng mục tiêu]]) thường dùng thêm một đồng hồ điện tử làm sensor thời gian, quá đó hiệu chỉnh đường bay. Có thể định hướng mục tiêu qua radio, radar, quang, hồng ngoại, đèn chiếu hồng ngoại hay radar, âm thanh (dưới nước). Rất nhiều đạn đối đất chỉ tự động ổn định, còn việc lái được máy tính từ máy bay mẹ hoặc phi công lái thủ công. Các máy hay người từ bệ phóng mẹ lái đạn qua radar, TV, laser bám đường, hay laser định hướng laser homing như trên.
Nhiều
===Lái===
Đạn có thể lái từ xa, có thể bám theo mục tiêu, có thể dùng định vị... tức là tất cả các phương pháp điều khiển có thể giúp đạn đi đến đích. Loại đạn bắn xong không phải quan tâm nữa là đạn "bắn và quên". Để lái đạn cần "bám mục tiêu" (''track''), có thể bằng người thông qua các phương tiện quan sát điện tử, hay hoàn toàn tự động.
Người ta phân biệt ba mức lái. Một là đạn bắn ra rồi tự đến mục tiêu, không cần liên hệ gì với bệ phóng. Hai là đạn được lái tự động nhưng có trợ giúp từ bệ phóng, sự trợ giúp này hoàn toàn tự động. Ba là đạn được chỉ thị mục tiêu hoặc trực tiếp lái bởi người. Những đạn có liên hệ với bệ phóng có thể dùng radio (như các SAM), laser (ATGM-15), hay dùng dây dẫn (AT-3 nguyên thủy), hay đèn chiếu hồng ngoại như các AT-3 cải tiến. Các
Các
Các đạn đối không gặp nhiều thuận lợi khi nhận dạng mục tiêu tự động bằng hồng ngoại, radar hoặc lỗ trống tử ngoại trên bầu trời. Các đạn chống hạm dễ dàng phát hiện ra tàu địch-kể cả tàng hình bằng radar bước sóng dm. Phương pháp bay rất thấp tốc độ cao cho phép các đạn chống hạm vượt qua phòng thủ đối phương, được trợ giúp bởi dẫn đường quan tính và đo cao radio.
Hàng 53 ⟶ 55:
Nhận dạng mục tiêu trên đất rất khó khăn. Các đạn không chính xác lắm như bom lớn đánh từ máy bay thì có thể dùng radar. Việc dùng nhiều màu hồng ngoại cũng tăng vọt khả năng tự động những năm 1980-1990. Trong [[thập niên 1990]], Nga phát triển [[AT-15]] sử dụng băng sóng mm. Ngày nay, việc tự động nhận dạng hình ảnh đang phát triển.
==Những loại
===[[
là loại đạn có động cơ chính hoạt động trong thời gian ngắn, sau đó, chủ yếu đạn bay theo quỹ đạo giống đường đạn, được các động cơ nhỏ hơn hiệu chỉnh; tiếng Anh là ''ballistic missile'', người Tàu gọi là 彈道導彈 hay "đạn đạo đạo đạn". Ở đây, chữ 道 "đạo" là "đường" nên 彈道 là "đường đạn", còn chữ 導 "đạo" là "dẫn dắt" nên 導彈 là "đạn được lái". Người ta thường dùng các cụm từ viết tắt
*[[
*[[
*[[
*[[
*[[
===[[
[[Hình:Tomahawk Block IV cruise missile -crop.jpg|thumb|300px|trái|BGM-109 Tomahawk]]
Trái lại với đạn đường đạn, [[
Về nguyên tắc, các
===
[[Hình:S-300V.jpg|thumb|trái|S-300V (SA-12a Gladiator)]]
[[Hình:AA-11 Archer missile.PNG|thumb|300px|trái|AA-11 Archer]]
Người ta thường ký hiệu đạn đất đối không SAM và không đối không AAM. Những đạn này có động cơ hoạt động trong suất thời gian đạn bay để lái đạn theo đường bay phức tạp. Hầu hết các đạn này dùng động cơ tên lửa, nhưng cũng có một số đạn dùng động cơ hút không khí. Các
Các đạn đối không có thể hướng mục tiêu hay lái từ xa. Hướng mục tiêu là đạn luôn lao vào mục tiêu theo hồng ngoại hoặc sóng radar. Còn lái từ xa là máy tính hoặc người dùng hệ thống đo đạc lớn để định vị chính xác đạn và mục tiêu, tiên đoán vị trí mục tiêu và lái đạn theo đó. Ví dụ trong chiến tranh có SAM-2 là lái còn SAM-7 là hướng mục tiêu hồng ngoại. Một điểm quan trọng khi đánh giá đạn đối không là tốc độ tối đa của mục tiêu khi đánh đuổi và đánh chặn, S-300 là M2,8, S-400 là M4,8. Cho đến S-400 thì đạn vẫn yếu khả năng đánh tên lửa đạn đạo nên nhóm
Người ta có thể chia các
[[Hình:SA-7.jpg|thumb|300px|trái|Strela 2, mã NATO SAM-7, tên Việt Nam A72]]
SAM nhỏ vác vai ví dụ như SAM-7 được dùng trong chiến tranh Việt Nam, thường có đầu dò hồng ngoại và lái theo hướng tự hướng mục tiêu. 9K38 Igla ngày nay (SAM-16) nặng cả ống phóng 11 kg bắn xa 5 km.
Các đạn không đối không tầm ngắn ngày nay có tầm vài chục km, thường được lái bởi máy bay mẹ và có đầu tự hướng mục tiêu hồng ngoại. Ngày nay các đầu dò hồng ngoại thường đo nhiều tần số (nhiều màu), cho phép xác định chính xác nhiệt độ trên bề mặt mục tiêu, tránh bị đánh lừa bởi mồi nhiệt do mục tiêu tung ra. Thông thường, các đạn tầm ngắn ngày nay được máy bay mẹ lái cho đến khi nó dò được mục tiêu thì đạn tự đi tiếp, còn các đạn hồng ngoại ban đầu phải chờ phát hiện ra mục tiêu mới phóng. Trong giai đoạn đầu, đạn có hệ thống con quay hổi chuyển để thông báo hướng của nó với máy bay mẹ, còn vị trí của đạn và mục tiêu thì máy bay mẹ đo qua radar, chỉ có các máy bay đối không Nga như Su-30 mới có radar trước sau để lái đạn đánh ra mọi hướng, còn các máy bay khác chỉ có thể đánh được các mục tiêu ở góc phía trước.
Bắt đầu từ chiến tranh Việt Nam thì vũ khí đối không then chốt là
Cũng vào WW2 thì Đức đã chế tạo nhiều đạn SAM A4. Đạn này được lái thủ công qua màn hình radar. Tuy nhiên, người Đức đã không thể hoàn thiện radar cho mục tiêu này. Sau đó, Liên Xô đã phát triển tiếp và cho ra đời SAM-1, nhưng giá đắt và chỉ bảo vệ một số mục tiêu quan trọng. SAM-2 là phiên bản SAM đầu tiên được dùng rộng ở Liên Xô. Mỗi loại SAM thật ra là một nhóm các radar và các đạn cùng lớp kỹ thuật chứ không phải là một loại đạn. Từ 197x thì máy tính đã phát triển, thiết bị bay không người lái đã bay tốt hơn có người lái, nên SAM thực chất đã mạnh hơn đối thủ của nó là máy bay có người lái. Vào thời SAM-2 thì loại này có đạn bắn xa 30 km, nó định vị mục tiêu kém chính xác nên dùng đầu nổ rất lớn nhồi 295 kg thuốc để trùm lên khu vực rộng. SAM-2 trong chiến tranh Việt Nam đã khá lỗi thời, kém khả năng chống nhiễu.
===
[[Hình:9M133 Kornet.JPG|thumb|trái|300px|9M133 Kornet]]
ATGM dùng đầu đạn lõm để xuyên giáp. Ngày nay các ATGM thường dùng đầu đạn tandem 2 tầng để vượt qua giáp phản ứng nổ ERA. ATGM hiện nay có tầm bắn diệt giáp hạng nặng cao hơn pháo tăng bắn đạn xuyên APFS-DS, ATGM bắn từ phương tiện cơ giới ngày nay vượt 5 km, APFS-DS chỉ 1 km. ATGM cho phép máy bay không mang được pháo tăng cũng diệt được xe tăng ở tầm xa. NGoài ra, xe tăng ngày nay cũng áp dụng ATGM bắn từ nòng pháo. Đạn ATGM dễ bị lỗi hơn đạn xuyên truyền thống, các nguyên nhân lỗi là nhiễu mất điều khiển, bắn vào giáo quá nghiêng, hay gặp giáp phản ứng nổ. Đạn ATGM cũng dễ bị đánh chặn hơn bởi các hệ thống đánh chặn bảo vệ xe tăng APS. Để tăng độ tin cậy cần bắn chính xác ATGM vào những chỗ yếu trên vỏ xe tăng như ổ đỡ tháp pháo, nóc xe, đuôi xe...
ATGM có thể dùng cho người đi bộ,vác vai, xe cơ giới hạng nhẹ, máy bay cánh cố định hay trực thăng, bắn từ nòng pháo tăng... Những ATGM dành cho người đi bộ nhỏ nhất là vác vai, sau đó là loại dùng trên giá 3 chân 1 người mang... chúng thường có tầm ngắn hơn đạn dùng trên máy bay và xe cơ giới. Ngày nay,
ATGM có cơ chế đẩy rất đa dạng nhưng thường dùng động cơ tên lửa. Nó có thể dùng động cơ tên lửa như ATGM-3 trong chiến tranh, dùng trong một tổ bộ bịnh 3 người. Các pháo tăng bắn ra loại ATGM chuyên dùng, có thể có động cơ tên lửa, hay chỉ bay theo quán tính và lái bằng cánh khí động. Ngày nay, đa phần các
Các ATGM ban đầu như ATGM-1/2/3 lái bằng dây, đạn vừa bay vừa xả dây truyền tín hiệu lái nối với bệ phóng. Người lái thủ công cầm cần lái chỉnh cho đạn nằm trên đường nối giữa mắt và mục tiêu, gọi là lái bám đường thủ công MCLOS (Manual Command to Line of Sight)). Máy điều khiển của đạn loại này đơn giản, nó chỉ cần xác định 2 trong số 3 hướng và không cần định vị. Sau đó thay bằng lái bám đường bán tự động SACLOS (Semi-Automatic Command to Line of Sight). Ngày nay ngoài các cách lái này ra,thì các cách lái như hướng mục tiêu bằn hồng ngoại, laser, hình học.... đã phát triển. Khi lái bám đường bằng laser, thì bệ phóng bắn liên tiếp các tía laser mang theo thông tin về hướng tia xung quanh đường bay, khi thu được các tia truyền tin này, đạn sẽ biết được nó nằm ở đâu trong chùm tia, và hiệu chỉnh đường bay về giữa chùm tia. Ngày nay, các xe tăng hiện đại có hệ thống tự vệ gây chói khi phát hiện bị tấn công bằng laser hay hồng ngoại chủ động, nên cách lái an toàn nhất vẫn dùng dây mặc dù không đi được xa như laser. Những đạn tin cậy nhất có nhiều phương án lái để xạ thủ chọn lựa. NHững loại đạn Nga như AT-14 dùng một đường bay đặc biệt để tránh bị phát hiện, trwn đường đến mục tiêu đạn bay cao để máy lái không chiếu laser đến mục tiêo, khi gần đến nơi đạn mới hạ xuống-mục tiêu phản ứng không kịp. NGoài kiểu bám đường thì kiểu lái tự hướng mục tiêu "homrming" cũng được sử dụng, ngoài định tâm hồng ngoại thụ động, thì hiện nay và trước đây có các kiểu hồng ngoại chủ động hay laser. Để hướng mục tiêu bằng laser thì người ta chiếu chùm tia đã mã hóa thông tin vào mục tiêu, đạn sẽ hướng vào đó.
Hàng 108 ⟶ 110:
Ngày nay đã có những đạn ATGM tự động hoàn toàn, chúng tự tìm ra xe tăng và tấn công, tuy nhiên, khả năng nhầm lẫn của chúng còn cao. Nga và Đức đã sử dụng các loại đạn này. Ví như giàn tên lửa nhiều nòng MRLS BM-30 Smerch (tiếng Nga: Смерч) có đạn MOTV-3F, mỗi đạn mẹ mang 5 đạn con bắn xa 90 km, mỗi xe bắn liên tiếp 12 đạn mẹ. Khi tách khỏi đạn mẹ, đạn con dùng dù rơi xuống chậm quan sát, khi phát hiện mục tiêu bằng hồng ngoại nhiều bước sóng có đo nhiệt độ, đạn con tách khỏi dù tấn công <ref>[http://www.youtube.com/watch?v=tvntHazo6hE 300-mm "Smerch" MRLS - full version (300-мм РСЗО "Смерч"- полная версия) - YouTube<!-- Bot generated title -->]</ref>. BM-30 cũng bắn ra một loại đạn đặc biệt là các UAV dùng một lần, chúng bay lượn trên vùng trời có mục tiêu để trinh sát cũng như chụp ảnh lại kết quả bắn.
====Sơ lược lịch sử
Mỗi đầu đạn lõm có cấu tạo cơ bản là khối thuốc nổ lõm bao ngoài tấm tích năng lượng. Khối thuốc lõm ngày nay dùng HMX truyền nổ rất nhanh. Sau khi nổ, tấm tích năng bị nén thành một vật chất có mật độ cao, tốc độ cao, nhiệt độ cao để xuyên giáp (link trên). Tấm tích năng thường làm bằng đồng và có thể làm bằng volphram. Vì cấu tạo này, đầu đạn lõm muốn xuyên tốt cần được điểm hỏa đúng khoảng cách và thời điểm với yêu cầu chính xác phần vạn giây. Đạn B41 RPG-7V dùng tinh thể áp điện để tạo điện kích nổ khi va đập, tránh dùng ngòi cơ khí gây trễ như B40. Ngày nay các ATGM kích nổ điện nhưng bằng mạch điển tử thông minh. Cho đến nay, cũng chỉ ATGM Nga dùng loại trạm truyền nổ chữ U.
Loại
Loại tên lửa chống tăng có điều khiển đầu tiên là [[:en:Ruhrstahl X-4|Ruhrstahl X-7]], một phiên bản của [[:en:Ruhrstahl X-4|Ruhrstahl X-4]] <ref>[http://www.luft46.com/missile/x-4.html Ruhrstahl X-4 Air-to-Air missile Luft '46 entry<!-- Bot generated title -->]</ref><ref>[http://en.wikipedia.org/wiki/X-4_missile#X-7_anti-tank_missile Ruhrstahl X-4 - Wikipedia, the free encyclopedia<!-- Bot generated title -->]</ref>. Các đạn này lái bằng tín hiệu truyền qua dây, đạn vừa bay vừa xả dây dẫn ra. Panzerabwehrrakete X-7 (tên lửa chống tăng X-7) là tên chính thức của ATGM này, nặng 9 kg, vận tốc khoảng 100 m/s, tầm bắn 1000 mét. Đạn sử dụng 2 tầng động cơ tên lửa nhiên liệu rắn, có hai cánh, mang hai dây điều khiển, một dây lên xuống và một dây trái phải. Đạn có con quay hồi chuyển và khi bay đạn quay với vận tốc 2 vòng / giây, nhờ con quay hồi chuyển mà mạch điện sẽ nối khi đạn quay đến góc thích hợp để thực hiện lệnh lái, đạn phun ra bột sang để người điều khiển dễ quan sát. Link chi tiết về tên lửa này <ref>[http://www.oocities.org/pizzatest/panzerfaust12.htm ATGM Panzerabwehrrakete<!-- Bot generated title -->]</ref>. Đầu đạn nhồi 2,5 kg và điểm hỏa bằng ngòi chạm nổ. Đạn ra đời trong tình huống mà mạch điện tử còn quá yếu nên các giải pháp kỹ thuật quá phức tạp, do đó đạn không được ứng dụng trong chiến tranh. Tuy nhiên, nguyên tắc điều khiển này là nguyên tắc chung cho đến nay.
Hàng 160 ⟶ 162:
Ngoài ra, bên Nga đã phát triển mạnh hệ thống tự vệ APS của xe tăng. Hệ thống này như Shtora hay Arena có các tác dụng phát hiện bị lọc bằng laser, chùm đạn lái laser, khi đó xe tăng sẽ tung ra mồi chói và khói rồi lẩn trốn. Khi đạn đến gần thì xe tăng có cấc radar phát hiện và đo được hướng đạn, bắn ra đạn phá hủy ATGM tự động. Chính vì thế, các ATGM cps yêu cầu thiết kế kém đều không thể đến gần giáp chính.
===
[[Hình:Brahmos imds.jpg|thumb|trái|300px|Brahmos]]
Nếu nhìn về lịch sử đánh nhau trên mặt nước thì trước WW2 các vũ khí đánh nhau chủ yếu là pháo cỡ lớn 3xx-4xxmm, và chống cự lại chúng băng giáp thép dày hơn nửa mét. Trong WW2, Nhật Bản đã gây choang vì thiết kế hạm đội mới có tàu diệt tàu chủ lực là tàu sân bay. Từ đó, Mỹ học theo Nhật và cho đến nay vẫn dùng hạm đội kiểu Nhật Bản, loại hạm đội có tàu sân bay là vũ khí diệt tàu chủ lực. Đương nhiên, máy bay có tầm xa và mang được bom lớn hơn nhiều pháo lắp trên tàu. Đến cuối chiến tranh, khi đã yếu, Nhật Bản đã dùng máy bay có người lái cảm tử như một loại đạn. Nhưng dĩ nhiên máy bay có người lái quá cồng kềnh và không thể có khả năng vận động mạnh mẽ như máy bay tự động. Người ĐỨc đã thử nghiệm dùng đạn hành trình V2 để chống tàu, nhưng đạn này có khả năng vận động kém. Fritz X là loại đạn chống hạm đầu tiên, được Đức đưa ra và đã lập các chiến công lớn như bắn chìm soái hạm Ý. Ruhrstahl X-1 (Fritz X) có thể có động cơ nhỏ hay không có động cơ, nên nó lai giữa [[bom lượn]] và tên lửa, được lái qua sóng radio bởi hệ thống lái Kehl-Straßburg (phát triển bởi Telefunken) <ref>[http://www.wehrmacht-history.com/luftwaffe/missiles/ruhrstahl-x-1-anti-ship-missile.htm Ruhrstahl X-1 Kramer X-1 (Fritz X) Anti-ship Missiles<!-- Bot generated title -->]</ref>, đạn mang đầu chứa 300 kg thuốc nổ và có tầm xa 5 km, thả từ máy bay, tổng khối lượng phiên bản không động cơ 1362 kg, đầu đạn có mũ bảo vệ 130mm hợp kim nhôm. Đức đã dùng nhiều thiết bị điều khiển khách nhau cho nhiều loại
Sau chiến tranh, Liên Xô đã nỗ lực vượt bậc để đưa
Các nước Trung-Ấn và nhiều nước khác đã tìm cách liên doanh-mua kỹ thuật của Nga để phát triển hàng loại các đạn diện hạm hiện đại như Brahmos Ấn Độ. Các đạn này đều trang bị radar hiện đại, đường bay là là mặt biển, phối hợp theo nhóm, tốc độ bay là là M2-M3, có các phiên bản bắn từ máy bay-xe cơ giới-tàu chiến-tàu ngầm. Nhưng cho đến nay không loại đạn nào mạnh như Granit. Hiện tại các nước ngoài Nga đều thỏa mãn với việc sở hữu loại đạn diệt hạm mạnh nhất của họ có tầm bắn khoảng 300 km. Riêng Brahmos là loại đạn rất mạnh trong số đó, đạn khởi động bằng động cơ tên lửa, sau đó động cơ khởi tốc được tháo bỏ, đạn tiếp tục tăng tốc bằng động cơ tuốc bin một luồng turbojet, khi đã bay nhanh, động cơ này tăng phần không qua tuốc bin trở thành động cơ lai giữa động cơ tuốc bin và động cơ luồng nén không khí bằng vận tốc ramjet. Brahmos có hệ thống dẫn đường chống tàng hình mạnh-trong khi bản thân nó lại tàng hình mạnh, tên lửa có radar riêng, trong đường bay thấp khi còn xa mục tiêu đạn được dẫn đường bằng radar mẹ từ bệ phóng, một đường may khác là đạn nhớ vị trí mục tiêu, bay thấp dùng dẫn đường quán tính đến gần. Một đường bay khác thừa kế từ thời các P-500 196x là một đạn bay cao chấp nhận để địch nhìn thấy nhưng cũng nhìn được địch, cung cấp dữ liệu cho các đạn khác bay thấp, nay đường bay này rất hiệu quả khi có máy tính. Đạn bay cách mặt nước 10 mét với tốc độ M2,8, tầm bắn 290 km. [[Brahmos]] được phát triển từ P-800 Oniks, có cấu hình khí động giống như Granit nhưng nhỏ hơn, đạn nặng 3 tấn mang đầu nhồi 300 kg.
===
Săn tàu ngầm là một kỹ thuật khó khăn, môi trường nước không truyền sóng điều khiển đạn, trong khi đó tàu ngầm cần được phát hiện bởi các phương tiện đặc biệt. Ví dụ về đạn săn tàu ngầm là RPK-9 Medvedka của Nga. Đạn nặng 800 kg, đạn có hai phần, một phần đầu đạn săn tàu ngầm bằng âm thanh, nó liên lạc với phần nổi qua dây dẫn truyền về bệ phóng mẹ. Khi vận hành, tàu mẹ bắn đạn đến khu vực có tàu ngầm, đạn tách đầu là một ngư lôi con ra. Độ sâu tối đa 500 mét, cao hơn độ sâu tối đa của tất cả các tàu ngầm phương Tây.
Có nhiều phương án chống tàu ngầm. Máy bay Su-32/34 có thể phát hiện tàu ngầm đang di chuyển từ xa qua phân tích sóng nước trên radar. Máy bay thả xuống khu vực có tàu ngầm khoảng 70 phao nổi, các phao này có liên lạc radio, định vi, và liên tục phát/thu hạ âm. Khi đã định vị được tàu ngầm thì các đạn chống ngầm mới hoạt động. Tuy nhiên,
===
Cũng như SAM chỉ đất đối không AAM chỉ không đối không, tiếng Anh thường ký hiệu
Các
Các
Phiên bản dưới âm tầm ngắn bên Mỹ là AMG-84 Harpoon nặng 690 kg đầu nhồi 220 kg bắn xa 124 km tốc độ dưới âm, đạn được dùng cho cả đối đất và chống hạm, trong nhiệm vụ chống hạm thì đạn là chủ lực của quân Mỹ. Đạn dùng động cơ khởi tốc tên lửa và sau đó là động cơ tuốc bin 1 luồng turbojet. Nga có Kh-35 tương tự như Harpoon, Kh-35 đang chú ý vì nó được trang bị cho Việt Nam, dùng động cơ turbofan thích hợp hơn cho tốc độ chậm. Cả hai loại đạn này đầu có các phiên bản bắn từ máy bay và tàu chiến, xe cơ giới, tàu ngầm. Nhình tổng thể thì người Mỹ quá yếu về đạn có cánh, họ thiếu hẳn các đạn có tốc độ cao vượt qua phòng thủ và khả năng điều khiển thông minh tấn công bằng nhiều phương án.
Người Nga có thêm các
===[[Bom lượn]]===
[[Hình:AGM-154 JSOW 01.jpg|thumb|trái|300px|AGM-154 JSOW]]
[[Bom lượn]] là
Vì cấu hình như trên, nên bom lượn có tầm rất ngắn, đổi lại bom lượn có tỷ số khối lượng thuốc nhồi đầu / toàn bộ khối lượng rất lớn, nâng cao vọt khối lượng thuốc phá hữu ích mà máy bay mang theo. Bom lượn khó tấn công các mục tiêu di chuyển như tàu biển, nên thường được dùng tấn công mặt đất. Loại bom to nhất thế giới mang tên "Bom Bố" của Nga cũng là một loại bom lượn. Bên Mỹ có GBU-15 (Guided Bomb Unit 15), 1,1 tấn, tầm tối đa 24 km <ref>[http://www.designation-systems.net/dusrm/m-112.html Rockwell GBU-15(V)/B<!-- Bot generated title -->]</ref>. [[AGM-154 Joint Standoff Weapon]] khi được máy bay mạnh ném đi có thể lượn đến 100 km.
Hàng 200 ⟶ 202:
Thông thường, nhiều loại đạn kết hợp cả tính năng động cơ và tính năng lượn, nó mang theo động cơ nhỏ gọn có thể bật tắt nhiều lần, để năng cao khả năng vận động. Ví dụ GBU-15 có phiên bản dùng động cơ là AGM-130 <ref>[http://www.designation-systems.net/dusrm/m-130.html Boeing AGM-130<!-- Bot generated title -->]</ref>.
===
[[Hình:Galosh anti-ballistic missile launcher.JPEG|thumb|trái|300px|ABM-1 Galosh]]
Đa phần các tên lửa đạn đạo là
Các
Tên lửa S-500 hiện nay bước vào giai đoạn thử nghiệm, được trang bị vào khoảng 2015, có khả năng đánh các mục tiêu có vận tốc 7 km/s là vận tốc của đại đa số các tên lửa đạn đạo <ref>[http://vtc.vn/311-346822/quoc-te/nga-trien-khai-he-thong-phong-thu-ten-lua-sieu-toi-tan.htm Nga triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa siêu tối tân - VTC News<!-- Bot generated title -->]</ref>. Chỉ đến lúc đó thì mới xuất hiện nhóm SAM kiêm chức năng ABM, còn hiện nay S-400 vẫn là SAM chuyên nghiệp và ABM là nhóm
Để đánh chặn
Cho đến nay, phương án đánh chặn tên lửa liên lục địa khả thi vẫn là sử dụng các
A-35 là hệ thống đánh chặn đạn đạo tiêu chuẩn đầu tiên của Liên Xô 196x, được NATO gọi là ABM-1, đạn nặng 23 tấn, bắn xa 300 km, mang động cơ hỗn hợp hồm cả động cơ tên lửa và động cơ ramjet dùng không khí. Phiên bản cải tiến ABM-1U mang tầng cuối là động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng bật tắt nhiều lần để chỉnh hướng quỹ đạo. Radar của hệ thống là Don-2 có tầm quét 6 ngàn km. Hệ thống đánh chặn đạn địch ở cả hai giai đoạn giữa và cuối. Từ đó đến nay đã nhiều lần cải tiến, ngày nay Nga đang dùng các ABM-3 và ABM-4.
Hàng 216 ⟶ 218:
ABM-3 có các radar Don-2N quét đến tận châu Phi, radar đánh chặn ABM-3. Đạn tầm ngắn 53Т6 mang đầu đạn hạt nhân 10kt bắn xa 120 km, nặng 10 tấn <ref>[http://www.youtube.com/watch?v=slklsLsN7qs 53Т6 старт на Приозёрском полигоне (35 площадка) Сары-Шаган - YouTube<!-- Bot generated title -->]</ref>, đạn này dùng để đánh giai đoạn quay lại khí quyển của đạn địch. Đạn tầm xa 350 km 51T6 nặng 33 tấn dùng để đánh giai đoạn quỹ đạo của đạn địch. Sơ đồ bố trí ABM Nga <ref>[http://warfare.ru/db/catid/239/linkid/2243/title/air-space-defence-troops/]</ref><ref>[http://warfare.ru/db/catid/239/linkid/2243/image/1546/]</ref>.
Bên Mỹ, do chiến lược phát triển sai nên đã không có ABM đúng đắn nào được thực hiện. Phương án đầu tiên cũng như SM3 ngày nay dùng
{{chú thích báo
|tác giả= Kiệt Linh
Hàng 229 ⟶ 231:
==Lịch sử==
Những
[[Tập tin:V-1 cutaway.jpg|thumb|trái|250px|Sơ đồ cắt V-1]]
[[Tập tin:V-2 rocket diagram (with English labels).svg|thumb|trái|300px|Sơ đồ cắt V-2.]]
[[Đức]] trong [[Thế chiến thứ hai]] phát triển những loại
[[Hoa Kỳ|Mỹ]] và [[Liên Xô]] cũng đã có những
[[Thập niên 1950]] đánh đấu việc chuyển [[vũ khí]] chính của [[máy bay]] từ đạn thường sang
[[Thập niên 1960]], Liên Xô đi tiên phong trong việc chống lại IBCM (các [[hệ thống chống
[[KS-1]] của Nga đánh dấu việc chuyển vũ khí chính đánh tàu từ bom đạn thường sang
Chiến tranh Việt Nam các SAM được sử dụng quy mô lớn, đến cuối chiến tranh, SAM trở thành vũ khí chủ lực. [[SAM-2]] được dùng cấp chiến dịch và [[SAM-7]] vác vai dùng cho trận đánh. SAM-2 và SAM-7 đến nay vẫn là những SAM giữ kỷ lục về số lượng diệt mục tiêu và tỷ lệ diệt, được xác lập từ chiến tranh Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử, những
Cuối những năm 1960, [[Liên Xô]] thực hiện cuộc cách mạng xe tăng với xe tăng [[T-64]], đặc trưng chính bởi [[giáp liên hợp]] và [[pháo nòng trơn]]. Các nước khác dần noi theo. Một trong những tiến bộ của cách mạng kỹ thuật này là ATGM bắn từ nòng pháo tăng. Các [[9K112 Kobra]], [[AT-8|mã tên phương Tây AT-8]], [[9M120 Ataka]] [[AT-9]], [[AT-10]] là những
Những năm 1970, việc phổ biến ATGM bắn từ máy bay cho phép thực hiện cuộc cách mạng kỹ thuật [[closing air support]] với [[Su-25]] và sau đó là [[A-10]]. Quan trọng hơn trong cuộc cách mạng này là các [[trực thăng vũ trang]] tranh ngôi ''bà chúa chiến trường'' với xe tăng. Trước đây, bắn tăng tầm xa bắt buộc phải dùng pháo lớn mà máy bay không mang được.
Ma-lức-ca (bé con), mã phương Tây [[AT-3]], tên [[Việt Nam]] [[B72]] là đạn chống tăng, lần đầu tiên được dùng trên chiến trường [[Quảng Trị]] cuối 1972 đầu 1973, thực hiện cuộc cách mạng về vũ khí chống tăng và xe tăng. Trận đánh lớn lịch sử [[Sinai]] tháng 10-1973 với xương sống là
Cũng những năm 1970, các
Trong các phiên bản thử nghiệm trước khi Tu-95 trang bị rộng, có các mẫu Tu-95/1, Tu-95/2, Tu-95K-E là mang đạn thường, phiên bản chính thức của Tu-95K và sau đó mang
Xác định rằng tàu chiến và thiết bị bay sử dụng
Các
[[Ngư lôi]] có điều khiển thay thế các ngư lôi thường sau [[Thế chiến II]]. Các ngư lôi có thể lái qua dây điện hay [[hướng âm thanh]] chủ động, bán chủ động.
[[Chechen 1999]] là cuộc chiến tranh quy mô lớn đầu tiên mà
[[Iraq 2003]],
== Chú thích ==
Hàng 281 ⟶ 283:
*http://www.aeronautics.ru/archive/fleet/russian/1144.htm
[[Thể loại:
[[Thể loại:Đạn dược]]
[[Thể loại:Vũ khí nổ]]
|