Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Asuka”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
SassoBot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thêm: it:Periodo Asuka
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thêm: ms:Zaman Asuka; sửa cách trình bày
Dòng 22:
== Dòng họ Soga và Thánh Đức Thái tử ==
:''Xem thêm [[Thánh Đức Thái tử]].''
[[ImageTập tin:Prince Shotoku.jpg|thumb|right|''Tōhon Miei'', Chân dung Thái tử Shōtoku và hai con trai ông, thế kỷ 8?]]
Dòng họ [[Soga]] kết hôn với gia đình hoàng tộc, và vào năm [[587]], [[Soga no Umaku]], tộc trưởng dòng họ Soga, trở nên quyền lực đến mức ông đã có thể đặt cháu mình lên ngôi hoàng đế, sau đó lại giết hoàng đế đó và thay bằng Nữ hoàng [[Suiko]] ([[593]]-[[628]]).
 
Dòng 53:
 
 
=== Hệ thống ''Ritsuryō'' ===
Hệ thống ''ritsuryō'' được lập thành nhiều mức. {{nihongo|[[Bộ luật Ōmi]]|近江令 (‘’Cận Giang Lệnh’’)}}, được đặt tên theo nơi đóng đô của triều đình Nhật hoàng Tenji, được hoàn thành năm [[668]]. Những sự hệ thống hóa cao hơn được [[Nhật hoàng Jito]] ban bố năm [[689]] trong {{nihongo|[[Bộ luật Asuka Kiyomihara]]|飛鳥浄御原令 (''Phi Điểu Tịnh Ngự Nguyên Lệnh'')}}, đặt theo tên nơi đặt triều đình của cố Nhật hoàng Tenmu. Hệ thống ''ritsuryō'' được củng cố thêm và hệ thống lại năm [[701]] trong {{nihongo|[[Bộ luật Taiho]]|大宝律令 (''Đại Bảo Luật Lệnh'')|Taihō Ritsuryō}}, mà trừ việc thay đổi chút ít và bỏ đi một số chức năng nghi lễ chính yếu, vẫn còn hiệu lực cho đến năm [[1868]].<ref name="FRD"/>
 
Dòng 63:
[http://www.j-texts.com/jodai/shoku1.html]</ref> Các pháp sư Trung Quốc cũng giữ vai trò quan trọng như các chuyên gia ngôn ngữ học, và hai lần được [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]] ban thưởng.
 
== Quan hệ đối ngoại ==
Từ năm [[600]] đến năm [[659]], Nhật Bản gửi 7 sứ thần đến [[nhà Đường]] ở Trung Quốc. Nhưng trong vòng 32 năm tiếp theo, trong giai đoạn Nhật Bản đang hoàn thành hệ thống luật pháp dựa trên thư tịch Trung Hoa ủa mình, họ không gửi ai đi. Mặc dù Nhật Bản cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, họ đã gửi 11 sứ thần đến [[Silla]], và theo [[Nihon Shoki]] thì Silla đã gửi 17 sứ bộ đến Nhật Bản dưới triều [[Thiên Hoàng Temmu]] và [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]]. Gia tộc thống trị Yamato và [[Baekje]] có quan hệ thân tình với nhau, và Yamato đã gửi hải quân của mình đến cứu viện Baekje, năm [[660]]-[[663]], chống lại cuộc xâm lăng của [[Silla]] và [[nhà Đường]] (xem [[trận Baekgang]]).
 
Thay vì chu du đến Trung Quốc, rất nhiều pháp sư từ [[Tam Quốc Triều Tiên]] được gửi đến Nhật Bản. Kết quả là, điều này cũng tình cờ thúc đẩy việc Nhật gửi quân cứu viện [[Baekje]].<ref name="Sansom">Sansom, George (1958). 'A History of Japan to 1334'. Stanford, California: Stanford University Press. 47-49.</ref> Một vài pháp sư nổi tiếng đến từ Triều Tiên như {{Nihongo|[[Eji]]|慧慈 (''Tuệ Từ'')}}, {{Nihongo|[[Ekan]]|慧灌 (''Tuệ Quán'')}}, {{Nihongo|[[Eso]]|慧聡(''Tuệ Thông'')}} and {{Nihongo|[[Kanroku]]|觀勒 (''Quan Lặc'')}}. Eji, đến từ [[Goguryeo]] là thày giáo của [[Hoàng tử Shotoku]], và cố vấn cho ông về chính trị.<ref>Encyclopedia of World Biography on Shotoku Taishi [http://www.bookrags.com/Prince_Sh%C5%8Dtoku]</ref>
 
=== Torai-jin ===
Những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên đã trở thành tự nhiên trong xã hội Nhật Bản cổ đại được gọi là {{nihongo|[[Torai-Jin|torai-jin]]|渡来人 (''Độ Lai Nhân'')}}. Họ truyền bá nhiều khía cạnh ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của mình cho cư dân bản địa. Người Nhật đối xử tốt với những ''torai-jin'' này vì triều đình Yamato đánh giá cao tri thức và văn hóa của họ. Theo ghi chép trong {{nihongo|''Shinsen-shōjiroku''|新撰姓氏録}}, danh sách tên các gia đình quý tộc được Triều đình Yamato biên soạn năm [[815]], một phần tư các gia đình quý tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Triều Tiên. 163 trong số 1182 cái tên là từ Trung Quốc, và 154 là từ bán đảo Triều Tiên (104 từ [[Baekje]], 41 từ [[Goguryeo]], và 9 từ [[Silla]] và [[Gaya]]).<ref name="Beasley">{{cite book| url=http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0520225600&id=9AivK7yMICgC&pg=PA32&lpg=PA32&dq=history+of+japan+and+korea&vq=korea&sig=V5gQx0zzYDUvUYqeYjnYRbMoCG8| title=The Japanese Experience: A Short History of Japan| first=W. G.| last=Beasley| publisher=University of California Press| id=ISBN 0-520-22560-0| year=Aug 31, 2000}}</ref>
 
Tuy nhiên, những người nhập cư này nói chung bị coi là thuộc giai tầng thấp hơn trong hệ thống ''[[Kabane]]'' xếp hạng rất nhiều gia tộc là thành viên của triều đình. Họ thường được xếp vào bậc "Atai", "Miyatsuko", hay "Fubito", trong khi các thành viên của các gia đình thống trị như Soga, Mononobe, và Nakatomi được xếp vào hạng "Omi" hay "Muraji".
 
=== Những người nhập cư ===
Một ví dụ về các gia tộc có tổ tiên ngoài Nhật Bản là gia tộc Yamatonoaya (''東漢氏'') (''Đông Hán thị’’), là hậu duệ của [[Hán Linh Đế]]. Người đứng đầu gia tộc này là Achi-no-Omi (''阿智使主'') (''A Trí Sứ Chủ''). Theo [[Nihongi]], dưới triều Nhật hoàng Kimmei, [[gia tộc Hata]] (''秦氏'') (''Tần Thị’’), hậu duệ của [[Tần Thủy Hoàng]], đã mang đến nghề nuôi tằm dệt vải. Gia tộc Kawachino-Fumi clan (''西文氏'') (''Tây Văn Thị''), là hậu duệ của [[Hán Cao Tổ]], dạy cho triều đình Yamato văn tự Trung Hoa, theo ''Shinsen-shōjiroku''. Gia tộc Takamoku là hậu duệ của [[Tào Phi]].<ref>{{cite web| url=http://homepage1.nifty.com/k-kitagawa/data/shoji.html| title="Shinsen-shōjiroku" shizoku ichiran 『新撰姓氏録』氏族一覧|publisher=transcribed by Kazuhide Kitagawa|accessdate=2006-10-16}}</ref><ref>{{cite web| url=http://www.myj7000.jp-biz.net/clan/03/03008.htm| title=Nihon no myōji 7000 ketsu seishi ruibetsu taikan Takamuko uji 日本の苗字7000傑 姓氏類別大観 高向氏| accessdate=2006-10-16}}</ref> {{nihongo|[[Takamuko no Kuromaro]]|高向玄理 (''Cao Hướng Huyền Lý'')}} là một thành viên chủ chốt đã viết nên [[Cải cách Taika]]. {{nihongo|[[Tori Busshi]]|止利仏師 (''Chi Lợi Phật Sư'')}}, cũng đến từ Trung Quốc, là một trong những họa sỹ nổi tiếng nhất thời Asuka.
 
Năm [[660]], một trong Tam Quốc Triều Tiên, [[Baekje]], mất về tay [[Silla]] và [[nhà Đường]]. Sau đó, rất nhiều nạn dân Baekje đã chạy loạn đến Nhật Bản. Triều đình Yamato đã đón nhận hoàng tộc và nạn dân Baekje. Hoàng gia Baekje được [[Nhật hoàng]] ban cho cái tên "[[Kudara no Konikishi]]" (百済王, ''Bách Tề Vương'').
 
== Truyền bá Phật giáo ==
{{nihongo|[[Phật giáo]]|仏教|Bukkyō}} truyền vào Nhật Bản được cho là nhờ vua [[Baekje]] [[Seong của Baekje|Seong]] năm [[538]], đặt nước Nhật trước một thể thức học thuyết tôn giáo này. [[Gia tộc Soga]], một gia đình trong triều đình Nhật nổi lên từ khi [[Nhật hoàng Kimmei]] lên ngôi khoảng năm [[531]], rất chuộng việc chấp nhận Phật giáo và kiểu mẫu văn hóa và chính quyền dựa trên [[Nho giáo]] [[Trung Hoa]]. Nhưng có những người ở triều đình Yamato – ví dụ như [[gia tộc Nakatomi]], những người có trách nhiệm điều hành các nghi lễ [[Shinto]] ở triều đình, và [[gia tộc Mononobe]] nắm binh quyền – bắt đầu cố gắng duy trì đặc quyền của mình và chống lại ảnh hưởng của một tôn giáo ngoại lai như Phật giáo. Nhà Soag du nhập vào hệ thống tài khóa kiểu Trung Hoa, thành lập cơ quan ngân khố đầu tiên, và coi các vương triều ở Triều Tiên là các bạn hàng thương mại thay vì đối tượng để mở rộng lãnh thổ. Sự gay gắt tiếp diễn giữa nhà Soga và hai nhà Nakatomi và Mononobe kéo dài hơn một thế kỷ, trong suốt thời kỳ đó nhà Soga tạm thời chiếm ưu thế. Trong [[Cải cách Taika]], Chỉ dụ về việc đơn giản hóa việc chôn cất được ban bố, và việc xây dựng các ''kofun'' (''cổ phần'') bị cấm. Chỉ dụ cũng quy định kích cỡ và hình khối của ''kofun'' theo đẳng cấp.<ref name="FRD"/> Kết quả là, các ''kofun'' sau đó, mặc dù nhỏ hơn, được nhân ra bởi những bức bích họa cầu kỳ. Việc vẽ tranh và trang trí của các ''kofun'' này thể hiện sự truyền bá của Đạo Lão và Đạo Phật trong thời kỳ này. [[Takamatsuzuka Kofun]] và [[Kitora Kofun]] nổi tiếng nhất vì những bức họa của nó.{{Fact|date=April 2007}}
 
Từ đầu thời kỳ Asuka, việc sử dụng các lăng mộ [[kofun]] cầu kỳ của Hoàng gia Nhật Bản và các quý tộc bắt đầu không còn được sử dụng vì niềm tin Phật giáo đã thắng thế, vốn nhấn mạnh vào tính tạm thời của đời người. Tuy vậy, thường dân và quý tộc ở những vùng xa xôi hẻo lánh vẫn tiếp tục sử dung kofun cho đến cuối thế kỷ 7, các lăng mộc đơn giản hơn nhưng đặc biệt tiếp tục được sử dụng trong thời kỳ tiếp theo.<ref name="FRD"/>
 
== Ảnh hưởng của Đạo giáo ==
Đạo giáo cũng được truyền vào Nhật Bản trong thời Asuka. Vào giữa thế kỷ 7, [[Nhật hoàng Saimei|Nữ Hoàng Saimei]] xây dựng đền thờ đạo Lão ở núi [[Tōnomine Tanzan|Tōnomine]] (多武峯談山) (''Đa Võ Phong Đàm Sơn''). Hình dạng bát giác của lăng mộ triều đình trong thời kỳ này và những thiên đồ được vẽ ở Kitora và Takamatsuzuka cũng phản ánh vũ trụ quan Đạo giáo. ''Tennō'' (Thiên Hoàng), tước hiệu mới của triều đình Nhật Bản trong thời đại này, cũng được cho là có nguồn gốc từ vị thần tối cao của Đạo giáo, ''Tenko-Taitei''(天皇大帝) (''Thiên Hoàng Đại Đế''), vị thần của [[sao Bắc Cực]] {{Fact|date=February 2007}}.
 
Niềm tin Đạo giáo cuối cùng được pha trộn với Shintō và Phật giáo tạo thành một thể thức nghi lễ mới. [[Onmyodo|Onmyōdō]], một loại bói đất và vũ trụ học Nhật Bản, là một trong những kết quả của việc kết hợp tôn giáo này. Trong khi thời kỳ Asuka bắt đầu với cuộc xung đột tôn giáo giữa các gia tộc thì sau đó, các tôn giáo từ bên ngoài này đã hòa nhập vào với niềm tin của dân bản địa.
 
== Nghệ thuật và kiến trúc ==
[[ImageTập tin:Geishaboy500.jpg|thumb|right|Mô hình Kudara Kannon ở [[Bảo tàng Anh]].]]
=== Nghệ thuật Asuka ===
Một số công trình kiến trúc xây dựng trong thời đại này vẫn còn đến ngày nay. Các công trình bằng gỗ ở [[Hōryū-ji]], xây dựng vào thế kỷ 7, đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa và các quốc gia Tây Á. Ví dụ như các cây cột ở [[Hōryū-ji]] khá giống với cột của điện [[Parthenon]] của [[Hy Lạp cổ đại]], như ở các đường gờ dọc cột. ''Ngũ Trọng Tháp'' (''五重の塔'') là sự chuyển biến từ kiến trúc Ấn Độ giống gò đất, [[Stupa]].
Dòng 97:
Nghệ thuật tượng Phật Nhật Bản được cho là phỏng theo kiểu cách thời Lục Quốc ở Trung Hoa. Phong cách của tượng phật thời kỳ này được gọi là phong cách Tori, được lấy từ tên nhà điêu khắc nổi tiếng [[Kuratsukuri Tori]], cháu nội của một người nhập cư Trung Hoa [[Shiba Tatto]].<ref>{{cite web| url=http://concise.britannica.com/ebc/article-9380953/Tori-style| title=Tori style| work=Britannica Concise| publisher=Encyclopædia Britannica}}</ref> Một vài kiểu mẫu tiêu biểu của phong cách này bao gồm mắt rõ ràng, hình quả hạnh, và các nếp gấp được sắp xếp đối xứng trên trang phục. Đặc điểm nhận dạng rõ rệt nhất của các bức tượng này là việc thể hiện nụ cười được gọi là [[Nụ cười Cổ xưa]]. Kudara Kanon ở Hōryū-ji là bức tượng Phật nổi tiếng nhất của thời kỳ này.
 
=== Văn hóa Hakuhō ===
Giai đoạn thứ hai của nghệ thuật Phật giáo, tiếp nối thời kỳ nghệ thuật Asuka, được gọi là [[Văn hóa Hakuhō]] (''Bạch Phượng Văn Hóa'') ([[:ja:白鳳文化|白鳳文化]]) và bắt đầu từ [[Cải cách Taika]] cho đến ngày dời đô khỏi Nara năm 710. Trong suốt nửa sau thế kỷ 8, hàng loạt các bài hát và bài thơ được soạn và biểu diễn bởi người từ nhiều đẳng cấp khác nhau, từ chiến binh đến Thiên hoàng. Tập thơ sớm nhất được biết đến là [[Man'yōshū]]. Nó bao gồm tác phẩm của vài nhà thơ đáng chú ý như [[Công chú Nukata]] và [[Kakinomoto Hitomaro]]. [[Waka (thơ)|Waka]] (''Hòa Ca'') cũng xuất hiện như một thể thơ mới trong thời kỳ này. Nó được hình như một thuật ngữ để phân biệt lối thơ dân tộc với lối thơ từ Trung Hoa; dưới ảnh hưởng của thể thơ ''waka'', một thể thơ được yêu thích hơn ra đời với cái ''tanka''. Nó bao gồm 31 chữ chia thành 5 dòng, theo mẫu 5/7/5/7/7.<ref>{{cite web| url=http://www.mnsu.edu/emuseum/prehistory/japan/asuka/asuka-period.html| first=Taku| last=Kurashige| coauthors=Rie Yamada| title=Asuka Period| year=2003}}</ref>
 
== Các sự kiện ==
*538: Vương quốc Triều Tiên Baekje gửi đi một đoàn sứ thần để giới thiệu Phật giáo cho Thiên Hoàng Nhật Bản.
*593: [[Thái tử Shotoku]] giữ trọng trách Nhiếp chính cho [[Thiên Hoàng Suiko|Nữ Hoàng Suiko]] và truyền bá Phật giáo cùng với gia tộc Soga.
Dòng 113:
*701: [[Luật Taihō]] được ban bố.
 
== Tham khảo ==
* {{loc|[http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/jptoc.html Japan]}}
 
Dòng 126:
[[ar:فترة أسوكا]]
[[id:Zaman Asuka]]
[[ms:Zaman Asuka]]
[[de:Asuka-Zeit]]
[[en:Asuka period]]