Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Romanos I Lekapenos”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
JarBot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Thêm {{Commonscat}}
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 42:
| isbn = 978-0-88402-247-3}}</ref> Theophylact hồi còn đi lính đã từng cứu giúp Hoàng đế [[Basileios I]] thoát khỏi vòng tay kẻ địch trong trận chiến tại [[Tephrike]] và được tưởng thưởng bằng một chức vụ trong đội Cấm vệ quân.<ref>Runciman, p. 63</ref>
 
Dù không được giáo dục tới nơi tới chốn (mà chàng rể [[Konstantinos VII]] sau này thường hay chế giễu), Romanos vẫn thăng tiến đều đều trong hàng ngũ quân đội dưới thời hoàng đế [[Leon VI]]. Năm [[911]] ông là tướng hải quân thema xứ [[Samos]] và về sau chuyển sang làm đô đốc một hạm đội (''[[droungarios tou ploimou]]''). Nhờ đó mà ông được triều đình yêu cầu tham gia vào các chiến dịch chinh phạt người [[Đế quốc Bulgaria thứ nhất|Bulgaria]] trên sông [[Danube]] vào năm [[917]], nhưng lại không có khả năng thực hiện sứ mệnh này. Trước thất bại thảm hại của quân Đông La Mã với người Bulgaria trong [[trận Acheloos]] năm 917, Romanos đi thuyền tới [[Constantinopolis]], nơi ông từng bước lấn lướt chế độ nhiếp chính mất uy tín của Nữ hoàng [[Zoe Karvounopsina]] và sủng thần của bà là [[Leon Phokas Già|Leon Phokas]].
 
==Nắm quyền==
[[Tập tin:Romanus I with Christopher, solidus.jpg|thumb|right|250px|Đồng xu vàng ''[[solidus (tiền xu)|solidus]]'' của Romanos I với người con cả [[Christophoros Lekapenos]]]]
Ngày [[25 tháng 3]] năm [[919]], nắm giữ vai trò chỉ huy trưởng hạm đội, Lekapenos đã đánh chiếm [[Cung điện Boukoleon]] và kiểm soát toàn bộ chính quyền. Lúc đầu, ông được phong là ''[[magistros]]'' và ''[[megas hetaireiarches]]'', nhưng đã nhanh chóng củng cố địa vị của mình: vào tháng 4 năm 919 ông đem con gái mình là [[Helena Lekapenos|Helena]] gả cho Konstantinos VII, và Lekapenos nhận tước hiệu mới ''[[basileopator]]''; vào ngày 24 tháng 9 ông được phong làm ''[[Caesar]]''; tới ngày 17 tháng 12 năm 919 Romanos Lekapenos đã lên ngôi hoàng đế lớn.{{sfn|Runciman|1988|pp=59–62}}
 
Trong những năm tiếp theo Romanos đã làm lễ đăng quang cho mấy người con làm đồng hoàng đế, [[Christophoros Lekapenos|Christophoros]] năm [[921]], [[Stephenos Lekapenos|Stephenos]] và [[Konstantinos Lekapenos|Konstantinos]] vào năm [[924]], dù trong thời gian này, Konstantinos VII được coi là có thứ bậc trên hết chỉ sau Romanos. Đáng chú ý là khi ông bỏ mặc không đả động gì đến Konstantinos, thì người đời gọi ông là "kẻ tiếm vị danh giá". Romanos củng cố vị trí của mình bằng cách gả mấy cô con gái của mình cho các thành viên của những danh gia vọng tộc Argyros và Mouseles, bằng cách cất nhắc vị thượng phụ bị phế truất [[Nicholas Mystikos]], và bằng cách đặt dấu chấm hết cho cuộc xung đột với [[Giáo hoàng]] qua bốn cuộc hôn nhân của Hoàng đế Leon VI. Ngay khi vừa lên ngôi, Romanos đã chứng kiến một số âm mưu lật đổ ông, dẫn đến việc bãi miễn liên tiếp mấy chức quan ''[[paradynasteuontes]]'' đầu tiên là [[John Rhaiktoros]] và [[John Mystikos]]. Từ năm [[925]] và cho đến khi kết thúc triều đại, chức vụ này đã bị quan thị vệ Theophanes chiếm lấy.
 
==Triều đại==
Dòng 55:
Thách thức lớn đầu tiên mà vị tân hoàng đế phải đối mặt chính là [[Chiến tranh Đông La Mã–Bulgaria (913–927)|cuộc chiến tranh với Bulgaria]], vốn đã âm ỉ dưới thời kỳ nhiếp chính của Zoe. Sự gia tăng quyền lực của Romanos đã tước mất các kế hoạch của [[Simeon I của Bulgaria|Simeon I xứ Bulgaria]] nhằm làm thông gia với Konstantinos VII, và Romanos đã nhất quyết từ chối sự nhượng bộ trái lòng về việc triều đình công nhận Simeon, vốn đã lật đổ hai chính phủ của thiên triều. Do đó, bốn năm đầu tiên của triều đại Romanos chìm đắm trong cuộc chiến tranh chống lại Bulgaria. Mặc dù Simeon nhìn chung cao tay hơn, ông không thể để đạt được một lợi thế quyết định vì không chiếm được các bức tường thành của Constantinopolis. Năm 924, khi Simeon một lần nữa lại phong tỏa thủ đô trên đất liền, Romanos đã thành công trong việc mở các cuộc đàm phán. Đón tiếp riêng Simeon tại [[Kosmidion]], Romanos chỉ trích thái độ coi thường của Simeon đối với truyền thống và tình huynh đệ đức tin Chính Thống giáo và khiến cho ông ta phải thẹn với lòng mình vào các điều khoản và chấm dứt cuộc vây hãm. Mối quan hệ sau đó bị hoen ố bởi sự tranh cãi liên tiếp về danh hiệu (Simeon tự xưng là Hoàng đế của người La Mã), nhưng hòa bình đã được vãn hồi một cách hiệu quả.
 
Sau cái chết của Simeon vào tháng 5 năm [[927]], vị hoàng đế mới của Bulgaria là [[Peter I của Bulgaria|Peter I]] đã biểu dương lực lượng bằng cách xâm nhập [[Thracia]], nhưng ông cũng tỏ vẻ sẵn sàng đàm phán vì một nền hòa bình lâu dài hơn. Romanos chớp lấy thời cơ và đưa ra đề nghị một hôn ước kết tình thông gia giữa hai hoàng tộc của Byzantium và Bulgaria, đồng thời đổi mới liên minh Serbia-Đông La Mã với [[Časlav xứ Serbia]], trao trả độc lập cùng một năm. Tháng 9 năm 927 Peter đặt chân đến kinh thành Constantinopolis và kết hôn với [[Eirene Lakapena|Maria]] (đổi tên thành Eirene, nghĩa là "Hòa bình"), con gái của trưởng nam và đồng hoàng đế Christophoros và do vậy cũng là cháu của Romanos. Nhân dịp này Christophoros nhận được địa vị ưu tiên trên cả ông anh rể Konstantinos VII, một cái gì đó nhằm dàn xếp sự oán giận của Konstantinos đối với Lekapenos, người Bulgaria và những cuộc hôn nhân của triều đình dành cho người ngoài (như tài liệu được dẫn chứng trong tác phẩm của ông có tựa đề ''[[De Administrando Imperio]]''). Kể từ thời điểm này, chính phủ của Romanos coi như đã thoát khỏi cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Bulgaria. Mặc dù Byzantium mặc nhiên trợ giúp cho dân [[Serbia]] nổi dậy chống lại Bulgaria vào năm [[931]], và Bulgaria thì lại cho phép người [[Magyar]] băng qua lãnh thổ của họ quấy nhiễu các vùng đất thuộc quyền kiểm soát của Đông La Mã, Byzantium và Bulgaria vẫn yên ổn trong suốt 40 năm, cho đến khi [[Cuộc xâm lược Bulgaria của Sviatoslav|Sviatoslav kéo quân xâm lược Bulgaria]].
 
===Chinh chiến phía Đông===
[[Tập tin:Byzantines repel the Russian attack of 941.jpg|thumb|right|250px|Hạm đội hải quân Đông La Mã dưới quyền Theophanes đẩy lui một cuộc tấn công của người Rus vào năm 941. Bức tiểu họa lấy từ quyển ''[[Madrid Skylitzes]]''.]]
Romanos đã bổ nhiệm viên tướng lỗi lạc [[John Kourkouas]] chỉ huy đạo quân (''[[domestikos ton scholon]]'') ở phía Đông. John Kourkouas dẹp tan một cuộc nổi loạn tại thema [[Chaldia]] và can thiệp vào Armenia trong năm 924. Từ năm 926 Kourkouas tung lực lượng tràn qua biên giới phía đông thảo phạt vương triều [[Nhà Abbas|Abbas]] và chư hầu của họ, và đã giành được một chiến thắng quan trọng tại Melitene vào năm [[934]]. Việc đánh chiếm thành phố này thường được xem là sự phục hồi lãnh thổ Đông La Mã chính yếu đầu tiên khỏi tay người Hồi giáo.
 
Năm [[941]], trong khi hầu hết đội quân dưới quyền Kourkouas đang mải mê chinh chiến ở phía Đông, một hạm đội 15 tàu cũ dưới quyền ''[[protovestiarios]]'' [[Theophanes]] phải bảo vệ Constantinopolis để ngăn ngừa một cuộc đột kích của [[Rus Kiev|Kiev]]. Những kẻ xâm lược [[Chiến tranh Rus–Đông La Mã (941)|bị đánh bại]] trên biển nhờ quân Đông La Mã sử dụng [[ngọn lửa Hy Lạp]] và một lần nữa trên đất liền, khi họ đổ bộ lên xứ [[Bithynia]], bởi đội quân trở về dưới sự chỉ huy của Kourkouas. Năm 944 Romanos [[Hiệp ước Rus–Đông La Mã (945)|ký một hiệp ước]] với Vương công [[Igor I của Kiev|Igor của Kiev]]. Cuộc khủng hoảng này dần trôi qua, Kourkouas được tự do trở về biên giới phía Đông.
 
Năm [[943]] Kourkouas đưa quân xâm chiếm miền bắc [[Lưỡng Hà]] và bao vây thành phố quan trọng [[Edessa]] vào năm [[944]]. Cái giá cho sự rút quân là Kourkouas đã thu về một trong những di vật được đánh giá cao nhất của Byzantium, ''[[mandylion]]'', tấm vải thánh được cho là do [[Chúa Giêsu]] gửi tặng vua [[Abgar V xứ Edessa]]. John Kourkouas dù được một số người đương thời xưng tụng như "một [[Trajanus]] hoặc [[Belisarius]] thứ hai", vẫn bị hoàng đế bãi chức vì để mất [[Lekapenoi]] vào năm [[945]]. Tuy vậy, các chiến dịch của ông ở phía Đông đã mở đường cho các cuộc tái chinh phục thậm chí còn ấn tượng hơn ở giữa và nửa sau của thế kỷ 10.
 
===Chính sách đối nội===
Dòng 69:
Romanos I Lekapenos cố gắng củng cố đế chế Đông La Mã bằng cách tìm kiếm hòa bình ở khắp mọi nơi có thể chẳng hạn những mối giao thiệp của ông với Bulgaria và [[Rus Kiev]] như mô tả ở trên. Nhằm bảo vệ miền Thracia thoát khỏi các cuộc xâm nhập của người Magyar (như vụ việc xảy ra vào năm 934 và 943), Romanos trả tiền để đổi lấy sự bảo vệ của họ và theo đuổi những động thái ngoại giao vụ lợi. Người [[Người Khazar|Khazar]] là đồng minh của Đông La Mã cho đến triều đại của Romanos, khi ông bắt đầu bức hại người [[Do Thái]] trong toàn bờ cõi đế chế. Theo [[Bức thư Schechter]], nhà lãnh đạo Khazar là [[Joseph (Khazar)|Joseph]] đã phản ứng về vụ đàn áp của người Do Thái bằng cách "làm như vậy với nhiều tín đồ [[Kitô giáo]]", và Romanos bèn trả đũa bằng cách kích động [[Oleg của Novgorod]] (gọi là ''Helgu'' trong thư) chống lại Khazaria.<ref name="Rus">"Rus". ''Encyclopaedia of Islam''</ref>
 
Tương tự như vậy, Romanos tái lập hòa bình trong giáo hội và vượt qua được những xung đột mới phát sinh giữa [[Roma]] và Constantinopolis bằng việc ban bố ''Đạo luật Hợp nhất Tomos'' vào năm [[920]]. Năm [[933]] Romanos đã tận dụng ngôi vị thượng phụ đang khuyết chỗ để phong cho người con út là [[Thượng phụ Theophylaktos thành Constantinopolis|Theophylaktos]] làm [[thượng phụ Constantinopolis]]. Vị thượng phụ mới này không có chút tiếng tăm nào về lòng mộ đạo và tài sản của giáo hội nhưng ông có thêm thắt vẻ màu mè vào lễ thức của Đông La Mã và là một kẻ say mê chăn ngựa, bị cáo buộc buông bỏ lễ misa chỉ để săn sóc một trong bầy ngựa cái yêu thích của mình ngay khi nó vừa chào đời.
 
Romanos đã hoạt động tích cực trong vai trò là nhà lập pháp về việc ban hành một loạt các đạo luật để bảo vệ địa chủ nhỏ tránh khỏi bị bất động sản của giới quý tộc sở hữu đất (''[[dynatoi]]'') nuốt chửng. Việc cải cách quyền lập pháp có thể đã lấy cảm hứng từ một phần do khó khăn gây nên bởi nạn đói năm 927 và các cuộc nổi dậy nho nhỏ tiếp theo của [[Basileios Tay Đồng]]. Hoàng đế cũng tìm đủ mọi cách gia tăng các loại thuế đánh vào tầng lớp quý tộc và kiến thiết một quốc gia đặt trên nền tảng tài chính an toàn hơn. Romanos còn có thể trấn áp hữu hiệu các cuộc nổi dậy ở một số tỉnh của đế quốc, đáng chú ý nhất là tại Chaldia, [[Peloponnesus]] và [[miền Nam nước Ý]]. Tại kinh thành Constantinopolis, ông cho xây dựng cung điện của mình ở nơi gọi là [[Myrelaion]], gần vùng [[Biển Marmara]]. Bên cạnh đó ông còn kiến tạo một ngôi đã trở thành ví dụ đầu tiên về một nhà thờ chôn cất tư nhân của một hoàng đế Đông La Mã. Hơn nữa, ông còn dựng lên một tiểu giáo đường hiến dâng lên [[Chúa Kitô Chalkites]] gần [[Cổng Chalke]], cổng vào đồ sộ dẫn tới [[Đại Cung điện Constantinopolis|Cung điện lớn]].
 
===Kết thúc triều đại===
Thời kỳ sau cùng của Romanos được đánh dấu bằng sự chú tâm cao độ của vị hoàng đế già nua về quyền phán xử thiêng liêng và ý thức tội lỗi ngày càng tăng đối với vai trò của ông trong việc soán đoạt ngôi vị từ tay [[Konstantinos VII]]. Lo sợ rằng Romanos sẽ cho phép Konstantinos VII kế vị ngai vàng thay vì họ, hai người con út là Stephenos và Konstantinos đã bắt giam cha mình vào tháng 12 năm 944, mang ông ra đến [[quần đảo Hoàng tử]] và ép buộc ông phải trở thành một [[tu sĩ]]. Khi họ đe dọa đến địa vị của Konstantinos VII, dân chúng Constantinopolis bèn dấy loạn, Stephenos và Konstantinos cùng chịu chung số phận khi bị tước hết quyền hành và lưu đày đến chỗ phụ hoàng. Romanos mất vào tháng 6 năm [[948]], và được chôn cất như các thành viên khác của gia tộc tại nhà thờ Myrelaion. Đã sống quá lâu dưới mối đe dọa liên tục sẽ bị phế truất của dòng họ Lekapenoi, Konstantinos VII tỏ ra cực kỳ căm ghét họ. Trong quyển sổ tay ''[[De Administrando Imperio]]'' được ông biên soạn dành cho con và người thừa kế của mình là [[Romanos II]], ông không tiếc lời sỉ vả người cha vợ gần đây: "Đức ông Hoàng đế Romanos là một thằng ngốc và là kẻ mù chữ, chẳng được dạy dỗ về cách ứng xử khuôn phép, không theo đúng phong tục tập quán La Mã ngay từ đầu, cũng chẳng có gốc gác cao quý nào cả, và do đó khi làm bất cứ việc gì đều trông phần khiếm nhã và độc đoán hơn... về niềm tin của ông thì thô kệch, cố chấp, không biết cái nào là tốt và không muốn tuân theo những gì là đúng đắn và phù hợp."<ref>{{chú thích sách| title = Cambridge History Byzantine Empire| editor = Jonathan Shepard| page = 39| url = http://pt.scribd.com/doc/43932713/Cambridge-History-Byzantine-Empire-Unknown| accessdate = ngày 2 tháng 8 năm 2011}}</ref>
 
==Gia đình==