Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Tranh (Phúc vương)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{bài cùng tênotheruses|Lê Tranh}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = TôngÝ thấtKhang hoàngPhúc gia Việt NamVương
| native name = 懿康福王
| tước vị = Phúc Vương
| tước vị = [[Hoàng tử]] [[Việt Nam]]
| thêm = vietnam
| hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| chức vị = Phúc Vương
| tại vị = 1471 - 1500
| tiền nhiệm =
| nhiếp chính =
Hàng 14 ⟶ 15:
| hoàng tộc = [[Nhà Hậu Lê]]
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| tên đầy đủ = Lê Tranh (黎錚)
| kiểu tên đầy đủ = Tên thật
| phối ngẫu = Trịnh Thục Tuân (郑淑珣)<br/>Lưu Châu Linh (刘珠玲)
| thông tin con cái = ẩn
| con cái =
| miếu hiệu =
| thụy hiệu = Ý Khang (懿康)
| cha = [[Lê Thánh Tông]]
| mẹ = [[Nguyễn tài nhân]]
| sinh = [[27 tháng 3]], [[1467]]
| nơi sinh = [[Đông Kinh]]
| mất = {{ngày mất và tuổi|1500|8|6|1467|3|27}}
| nơi mất = [[Đông Kinh]]
| nơi an táng = [[Hạnh Hoa Khê]], huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]
}}
'''Lê Tranh''' ([[chữ Hán]]: 黎錚; [[27 tháng 3]], [[1467]] - [[6 tháng 8]], [[1500]]), còn gọi là '''Phúc vương Tranh''' (福王錚), là một [[Hoàng tử]] và là [[nhà thơ]] rất nổi tiếng thời [[nhà Hậu Lê]].
 
== Tiểu sử ==
Phúc vương Tranh (福王錚)Ông sinh ngày [[27 tháng 3]], năm Quang Thuận thứ 4 ([[1467]]) tại kinh đô [[Thăng Long]], là con thứ 6 của [[Lê Thánh Tông|Thánh Tông Thuần hoàng đế]], mẹ là [[Nguyễn tài nhân họ Nguyễn]] (阮才人; 1444 - 1479), người làng Thiên Mỗ, huyện [[Từ Liêm]].
 
Năm Hồng Đức thứ 2 ([[1471]]), Thánh Tông sai đại thần [[Lê Hy Cát]] (黎希葛) mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm '''Phúc Vương''' (福王), cho lập phủ ở phường [[Đông Tác]], huyện [[Vĩnh Xương]] thuộc [[Thăng Long]].
 
[[Tháng 12]], năm Hồng Đức thứ 17 ([[1486]]), Phúc vương bà Thục Tuân, con gái Thượng thư [[bộ Binh]] [[Trịnh Văn Lượng]] (郑文亮) về làm vợ. Năm [[1488]], bà phi ấy mất, Phúc vương ở vậy cho tới năm [[1494]], mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Linh, con gái quan Mậu ân sứ [[Lưu Cảnh Đức]] (刘景德).
 
[[Tháng 8]] năm Cảnh Thống thứ 4 ([[1500]]), ngày 4, Phúc vương mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là ''việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ [[Phật]] và chỉ theo lễ cổ'', thì qua ngày mùng 6, ông qua đời, hưởng dương 33 tuổi. Thương tiếc ông, Hiến Tông cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là '''Ý Khang''' (懿康).
 
Theo [[Lê Quý Đôn]], ''...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là [[Kinh Dịch]], cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay [[thơ]], phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua [[Lê Thánh Tông]] đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa"'' <ref>''Đại Việt thông sử'' (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua [[Hán Quang Vũ Đế|Hán Quang Vũ]] ở [[Trung Quốc]]. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua [[Hán Cảnh Đế]] ở [[Trung Quốc]]. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.</ref>.
 
== Khu đền mộ ==
Sau khi Phúc Vương mất, [[tháng 10]] năm đó ([[1500]]), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]), là quê mẹ của Phúc Vương.
 
Năm [[1944]], [[nhà văn]] [[Trúc Khê]] có tới thăm mộ Phúc Vương, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu [[Hà Nội]]), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền <ref>Theo bài viết "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh" của [[Trúc Khê]], tr. 574-575.</ref>.
== Thơ văn ==
Thơ văn của Phúc Vương Tranh đã thất lạc hết, hiện chỉ còn lại hai bài thơ [[chữ Hán]] được chép trong ''[[Hoàng Việt thi tuyển]]'' do [[Bùi Huy Bích]] biên soạn. Đó là bài '''Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát''' (làm theo thể thất ngôn bát cú) và bài '''Xuân tảo''' (làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt). Theo [[nhà văn]] [[Trúc Khê]], thì ''cứ xem hai bài ấy cũng đủ biết Vương là một nhà thơ rất lỗi lạc'' <ref>Trúc Khê, bài viết đã dẫn, tr. 573.</ref>.
 
{|valign="top"
Hàng 68 ⟶ 69:
:''Trăm hoa tươi thắm nở đầy bên sông.
:''Nước non rờ rỡ xuân dung,
:''Rồng bay cá nhảynhẩy trong vòng trời [[Nghiêu]].
:''Đè sương thuyền ngự veo veo,
:''Tinh kỳ phấp phới theo chiều gió mai.
Hàng 91 ⟶ 92:
|}
 
== Sách tham khảo ==
*[[Lê Quý Đôn]], ''[[Đại Việt thông sử]]'' (mục "Phúc Vương"). Nhà xuất bản khoa học xã hội, [[Hà Nội]], 1978.
*[[Trúc Khê]], "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh", in trong ''Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện''. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.
 
== Chú thích ==
{{Tham khảo}}