Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vũ Văn Giai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: → using AWB
Dòng 46:
Đầu tháng 2 năm 1969, ông lên cấp [[Đại tá]] tại nhiệm. Tháng 6 cùng năm, ông lên giữ chức phụ tá hành quân cho Tư lệnh Sư đoàn 1 kiêm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn tại Ái Tử, Quảng Trị. Qua đầu năm 1970, ông chính thức được nhận chức Tư lệnh phó Sư đoàn 1 bộ binh.
 
Năm 1971: Trung tuần tháng 4, ông được vinh thăng [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Ngày 1/11 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 3 bộ binh tân lập, Bộ tư lệnh đặt tại căn cứ Ái Tử, Quảng Trị.
 
Ngày nhậm chức Tư lệnh Sư đoàn, các sĩ quan cao cấp Chỉ huy & Tham mưu trong Sư đoàn gồm có:
# Tư lệnh phó: Đại tá [[Ngô Văn Chung]] (khóa 4 Thủ Đức)
# Tham mưu trưởng: Đại tá [[Nguyễn Khoa Bảo]] (khóa 10 Đà Lạt)
# Chỉ huy Trung đoàn 2: Trung tá [[Huỳnh Đình Tùng]] (khóa 2 Thủ Đức)
# Chỉ huy Trung đoàn 56: Trung tá [[Phạm Văn Đính]] (khóa 9 Thủ Đức)
Dòng 61:
Sau ngày 30-4, ông bị chuyển từ nhà tù Chí Hòa qua các trại giam tù cải tạo của Chính quyền cách mạng: Quang Trung, Hóc Môn. Yên Bái, Hoàng Liên Sơn. Hà Tây, Hà Sơn Bình. Tới ngày 9/9/1987 ông mới được trả tự do.
 
Năm 1993: Ngày 3/3, ông cùng gia đình xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh và định cư tại Stanton, Nam California. Hoa Kỳ.
 
Ngày 13/10/2012, ông từ trần tại Garden Grove, cũng thuộc miền Nam California, Hoa Kỳ.
==Gia đình==
Phu nhân: Bà Phan Ly Ly (Ông bà có 5 người con gồm 2 trai, 3 gái).
 
==Tham khảo==