Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Ottoman”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:30.1990000
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 55:
|footnotes =<Big>'''[[Biên niên sử Đế quốc Ottoman]]'''</Big>
}}
'''Đế quốc Ottoman''' hay '''Đế quốc Osman''' ([[tiếng Thổ Nhĩ Kỳ]]: دولتِ عَليه عُثمانيه ''Devlet-i Âliye-i Osmâniyye'', dịch nghĩa "Nhà nước Ottoman Tối cao"; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại: ''Osmanlı İmparatorluğu''), cũng thỉnh thoảng được gọi là '''Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ''', là một quốc hiệu [[Thổ Nhĩ Kỳ]] đã tồn tại từ năm [[1299]] đến [[1923]]. Thời đỉnh cao quyền lực ở [[thế kỷ XVI]] và [[thế kỷ XVII]], các lãnh thổ của Đế quốc Ottoman gồm các vùng [[Tiểu Á]], [[Trung Đông]], nhiều phần ở [[Bắc Phi]], và đa phần đông nam [[châu Âu]] đến tận [[Kavkaz]]. Đế quốc Ottoman chiếm một vùng có diện tích khoảng 5,6 triệu [[kilômét vuông|km²]],<ref>{{Chú thích web|work=Regnal Chronologies|url=http://www.hostkingdom.net/earthrul.html|title=To Rule the Earth...|accessdate = ngày 6 tháng 4 năm 2006}}</ref> nhưng vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc [[du mục]] cai quản, nơi [[quyền bá chủ]] của đế quốc này được công nhận. Đế quốc Ottoman tương tác với cả văn hóa [[phương Đông]] và [[phương Tây]] trong suốt lịch sử 624 năm của nó.
 
== Lịch sử qua các thời kì ==
=== Nguồn gốc ===
Các [[tổ tiên]] của [[vương triều Ottoman]] là một phần của các bộ lạc [[Đột Quyết|người Tây Đột Quyết]] (''Gokturk'') miền tây đã di cư từ [[Trung Á]] bắt đầu từ thế kỷ 10. Định cư tại Ba Tư trong thời kỳ này, [[Nhà Seljuk|những người Thổ Nhĩ Kỳ]] bắt đầu mở rộng về phía tây tới [[Armenia]] và [[Tiểu Á]] vào đầu thế kỷ 11. Những đợt di chuyển này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa họ với [[Đế quốc Byzantine]], từng là một quyền lực chính trị nổi trội tại khu vực miền đông [[Địa Trung Hải]] kể từ thời kỳ La Mã, nhưng vào thế kỷ 11 bắt đầu một thời kỳ suy thoái dài. Người Thổ Seljuk đã thiết lập địa vị chắc chắn tại Tiểu Á sau chiến thắng lịch sử tại [[trận Manzikert]] năm [[1071]], để thành lập [[nhà Seljuk ở Tiểu Á]]. Tiếp theoSau sự xâm lăng của người [[Mông Cổ]] tới [[Tiểu Á]] trong thế kỷ XIII, triều đại này đã sụp đổ và lãnh thổ của nó đã bị phân chia thành nhiều vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ, tức các ''[[beylik]]''.
 
Dưới [[quyền bá chủ]] của [[nhà Seljuk ở Tiểu Á]], bộ lạc [[Kai|Kayı]] của [[người Thổ Nhĩ Kỳ Oghuz|người Thổ Oğuz]] đã tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành vương quốc Ottoman tại miền tây Tiểu Á. Thủ lĩnh người Kayı là [[Ertuğrul Gazi]] đã nhận được vùng đất này sau lưng Seljuk trong cuộc va chạm biên giới nhỏ. Hệ thống [[Seljuk]] tạo cơ hội cho sự bảo vệ vương quốc từ bên ngoài, và cũng cho phép nó phát triển cấu trúc nội tại của nó. Vị trí của Kayı trên ven rìa phía viễn tây của nhà nước Seljuk cho phép họ xây dựng lực lượng quân sự của mình thông qua sự hợp tác với các dân tộc khác sống tại miền tây Tiểu Á, nhiều trong số đó là những người theo Ki-tô giáo. Sau sự tan rã của nhà Seljuk, Kayı trở thành chư hầu của [[Hãn quốc Y Nhi]] của Mông Cổ.
Dòng 69:
[[Thời kỳ]] này là sự hình thành của ''[[Thể chế cai trị của Đế quốc Ottoman|triều đình Ottoman]]'' chính thức mà các cơ quan, tổ chức cấu thành ra nó gần như không thay đổi lớn gì trong gần 4 thế kỷ. Ngược lại với nhiều nhà nước cùng thời kỳ đó, hệ thống quan lại của Đế quốc Ottoman đã cố gắng tránh sự cai trị theo kiểu quân sự. Triều đình cũng tạo ra một thể chế pháp lý gọi là ''millet'' (kiểu lãnh thổ tự trị), mà trong đó thiểu số từ các dân tộc ít người và tôn giáo có khả năng quản lý công việc của chính họ với một sự độc lập đáng kể từ sự kiểm soát của trung ương.
 
Trong thế kỷ sau khi Osman qua đời, sự thống trị của Ottoman đã bắt đầu mở rộng trên toàn khu vực miền đông Địa Trung Hải và [[Balkan]]. [[Thessaloniki]], một thành phố quan trọng của [[Venezia]] bị chiếm năm 1387, và chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại [[trận Kosovo]] năm 1389 làm cho [[Serbia]] mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của sultan. [[Trận Nicopolis]] năm 1396 được xem là cuộc [[Thập tự chinh]] cuối cùng của thời [[Trung cổ]], trong trận này quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman. Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào [[Sự thất thủ của Constantinople|Constantinople]] đã trở thành mục tiêu quyết định. Đế quốc của người Thổ đã chiếm được [[Đế quốc Byzantine|các vùng đất Byzantine]] phụ cận Constantinople, nhưng người La Mã vẫn đứng vững được khi [[Tamerlane]] xâm lược [[Tiểu Á]], và bỏbắt giam sultan [[Bayezid I]] sau [[trận Ankara]] năm 1402. Các lãnh thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo) đều bị mất năm 1402, nhưng các vùng đất này được [[Murad I]] chiếm lại trong thập niên 1430 - 1450.
 
Việc Bayezid bị bắt làm cho đất nước bịrơi vào loạn lạc. Từ năm 1402 đến 1413, nội chiến bùng nổ giữa các con của Bayezit. Cuộc chiến này kết thúc khi vua [[Mehmed I]] lên ngôi và xây dựng lại đất nước, kết thúc [[Thời đứt quãng của Đế quốc Ottoman|Thời kì đứt quãng của Đế quốc Ottoman]]. Cháu nội ông, [[Mehmed II]] đã tái cấu trúc của cả nhà nước lẫn quân đội, và đã thể hiện các kỹ năng quân sự của mình trong cuộc [[Sự thất thù Constantinople|chiếm đóng]] [[Constantinople]] vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, khi mới 21 tuổi. Thành phố này trở thành kinh đô mới của Đế quốc Ottoman, và Mehmed II xưng làm ''Kayser-i Rum'' (Hoàng đế La Mã). Dù vậy, ngôi Hoàng đế La Mã của sultan Ottoman không được người Hy Lạp và các nước phương Tây công nhận, và các [[Nga hoàng]] cũng tự phong cho mình chức vị này. Để nắm vững ngôi Hoàng đế La Mã, Mehmed II khao khát chiếm Roma, và cho quân xâm lược [[bán đảo Ý]], chiếm [[Otranto]] và [[Apulia]] ngày 28 tháng 7, 1480. Nhưng sau khi ông bị [[ám sát]] ngày 5 tháng 3, 1481, chiến dịch ở Ý thất bại và quân Ottoman rút lui về.
 
=== Lớn mạnh (1453-1683) ===
Dòng 80:
Vào thời lớn mạnh, Đế quốc Ottoman đã trải dài toàn bộ đông-nam [[châu Âu]] bờ bắc [[Địa Trung Hải]], cả bờ biển bắc [[châu Phi]] cho đến [[Maroc]] phía nam Địa Trung Hải. Trong [[thế kỷ XVII]], Đế quốc Ottoman có khoảng 25 triệu dân – một con số khổng lồ vào thời đó, gần bằng gấp đôi bất cứ nước nào ở châu Âu ngoại trừ [[Pháp]]. Gần 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của Đế quốc Ottoman: [[Thổ Nhĩ Kỳ]], [[Hy Lạp]], [[Bulgaria]], [[România]], [[Nam Tư]] (sau này phân làm 5 nước độc lập), [[Hungary]], [[Albania]], [[Syria]], [[Liban]], [[Jordan]], [[Israel]], Aden, [[Kuwait]], [[Ai Cập]], [[Sudan]], [[Libya]], [[Iraq]], [[Yemen]], [[Tunisia]], [[Algérie]], [[Síp]], [[Armenia]], [[Gruzia]], [[Ukraina]] và một phần nước [[Nga]].
 
Vào đầu [[thế kỷ XVI]], Đế quốc Ottoman trở thành một trong những nhà nước lớn nhất thế giới thời bấy giờ. Trong thời kì này, nhiều ông vua kiệt xuất lên cai trị Thổ Nhĩ Kỳ: điển hình như [[Selim I]] (1512-1520), người có công sát nhập vùng [[Trung Đông]] vào Ottoman. Vào năm [[1514]] trong [[trận Chaldiran]], ông đã đánh bại vua [[Ismail I]] (1501-1524) [[nhà Safavid]] (Ba Tư). Ông đã tiêu diệt [[nhà Mamluk]] ở [[Ai Cập]] vào năm 1517 rồi giành danh hiệu [[khalip]] từ [[nhà Abbasid]] ở [[Cairo]] (các sultan Ottoman tiếp tục giữ danh hiệu này đến năm [[1924]]), bắt đầu thời kì [[Ai Cập thuộc Ottoman]].
[[Tập tin:Battle of Mohacs 1526.png|trái|nhỏ|[[Trận Mohács (1526)|Trận Mohács]] (1526) là cuộc xâm lược Hungary của Ottoman]]
Sau khi Hoàng đế Selim I mất, Hoàng đế [[Suleiman I]] (1520-1566) tiếp tục mở mang đế quốc. Sau khi thôn tính được [[Beograd]] năm 1521, Suleyman chinh phục [[Vương quốc Hungary]] và sau chiến thắng trong [[trận Mohács]] năm 1526, đế quốc Osmanli [[Hungary thuộc Osmanli|chiếm được]] Hungary và nhiều vùng đất ở [[Trung Âu]]. Sau đó, năm 1529 ông [[Cuộc bao vây Wien|bao vây thành Wien]], nhưng vì thời tiết ở đây khắc nghiệt nên quân đội ông rút lui.<ref>Inber, 50.</ref> Năm 1532, 25.000 quân Ottoman mở cuộc tấn công Wien, nhưng bị đẩy lui cách Wien 97&nbsp;km tại pháo đài [[Kốszeg|Guns]]. Sau cuộc mở mang xa nhất của Ottoman năm 1543, hoàng đế Habsburg là [[Ferdinand I (đế quốc La Mã Thần thánh)|Ferdinand]] công nhận quyền cai trị của Ottoman trên đất Hungary năm 1547. Dưới triều vua Suleyman I, [[Transilvania]], [[Wallachia]] và [[Moldavia]] trở thành những công quốc chư hầu của đế quốc. Ở phía đông, Ottoman chiếm [[Bagdad]] từ tay [[Ba Tư]] năm 1535, chiếm được [[Lưỡng Hà]] và Hải quân Ottoman tiến vào [[Vịnh Ba Tư]]. Khi Hoàng đế Suleyman I qua đời, dân số Ottoman lên đến 15.000.000 người.<ref>L.Kinross, ''The Ottoman Centuries:The Rise and Fall of the Turkish Empire, 206''</ref> Công cuộc bành trướng của ông đã mang lại cho ông một Đế quốc Ottoman vô cùng rộng lớn, và thậm chí ông còn vượt xa cả những tham vọng của Hoàng đế [[Xerxes I]] của [[Đế quốc Ba Tư]] năm xưa.<ref>Larry Wolff, Marco Cipolloni, ''The anthropology of the Enlightenment'', trang 62</ref>
Dòng 90:
Năm [[1571]], [[Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ-Venezia (1571-1573)]] nổ ra, quân Ottoman xâm chiếm đảo [[Síp]]. Hạm đội [[Liên minh thần thánh (1571)|Liên minh Thần thánh]] (bao gồm [[Venezia]], [[Tây Ban Nha]], [[Savoie]],...) đã đập tan Hạm đội Ottoman tại [[Trận Lepanto (1571)|Lepanto]]. Nhưng, năm 1573 Hải quân Ottoman được khôi phục lại, kết quả là Venezia phải kí hòa ước và nhượng Síp cho Đế quốc Ottoman.<ref>Davis, Paul K. "100 Decisive Battles: From the Ancient Times of the Present"</ref>
 
Đế quốc Ottoman bấy giờ bao lần tung quân đi xâm lược Ba Tư. Người Ba Tư thuộc [[hệ phái [[Hồi giáo Shia|Shia]] và tin mình là con cháu của [[Imam]] [[Ali bin Abu Talib]], trong khi người Ottoman thuộc [[hệ phái [[Hồi giáo Sunni|Sunni]]. Đầu [[thế kỷ 17]], quân Ba Tư tấn công lãnh thổ Đế quốc Ottoman ở [[Lưỡng Hà]].
[[Tập tin:Battle of Preveza (1538).jpg|nhỏ|200px|Hạm đội Ottoman do [[Barbarossa Hayreddin Pasha]] chỉ huy đánh thắng hạm đội [[Liên minh thần thánh (1571)|Liên minh Thần thánh]] ở [[Âu Châu]] do [[Andrea Doria]] chỉ huy tại [[Trận Preveza]] năm 1538.]]
Trong [[thế kỷ 16]] và [[thế kỉ 17|17]], Đế quốc Ottoman là một trong những thực thể chính trị mạnh nhất thế giới, các nước mạnh ở Đông Âu luôn bị đe dọa bởi sự mở rộng thường xuyên của nó qua [[Bán đảo Balkan|Balkan]] và phần phía nam của [[Liên bang Ba Lan-Litva]]. Hải quân của nó cũng là một lực lượng rất mạnh ở Địa Trung Hải. Nhiều lần, quân đội Ottoman đã tấn công Trung Âu, bao vây [[Viên]] năm 1529 và một lần nữa năm 1683 trong nỗ lực chinh phục lãnh địa của [[gia tộc Habsburg]], và cuối cùng chỉ bị đẩy lui bởi một liên minh to lớn của các nước mạnh tại châu Âu trên cả trên bộ và trên biển. Nó là quyền lực duy nhất không thuộc châu Âu đã thách thức được sự nổi lên về quyền lực của phương Tây trong khoảng giữa [[thế kỷ 15]] và [[thế kỷ 20]], tới mức nó đã trở thành một phần trong tổng thể của chính trị [[cân bằng quyền lực]] châu Âu, vì thế làm giảm bớt sự khác biệt giữa hai bên.
[[Tập tin:Battle of Lepanto 1571.jpg|trái|nhỏ|Hạm đội Liên minh Thần thánh do [[Don Juan nước Áo]] chỉ huy đánh tan hạm đội Ottoman do [[Muezzinzade Ali Pasha]] chỉ huy trong [[trận Lepanto (1571)|trận Lepanto]] năm 1571.]]
 
Đầu [[thế kỷ 17]], Đế quốc Ottoman bắt đầu suy yếu. Các sultan vào lúc này thường chỉ vui hưởng trong [[hậu cung]], ngoài ra, [[binh đoàn Janissary]] thường hay nổi dậy. Bên ngoài, quyền lực của đế quốc Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu thuyền của người [[Venezia]] và người [[Cozak]] thường xuyên quấy phá. Đế quốc được cứu nguy do tài năng của một đại gia đình làm quan [[Tể tướng]] gồm cha, con trai và em rể - đó là gia đìng Köprülü.
 
Năm [[1656]], dưới triều [[Mehmed IV]] (1648-1687), trong khi đế quốc gần bị sụp đổ,{{fact|date = ngày 6 tháng 1 năm 2013}} hậu cung đành phải cử một người [[Albania]] 71 tuổi, [[Köprülü Mehmed Pasha]] làm tể tướng (1656-1661). Ông này ra lệnh xử tử 50.000-60.000 người để bài trừ tham nhũng. Năm năm sau, lúc ông qua đời, tình hình có phần ổn định. Dưới quyền Tể tướng của con trai ông, [[Köprülü Fazıl Ahmed Pasha]] (1661-1676), và sau đó em rể ông, [[Kara Mustafa Pasha]] (1676-1683), uy quyền của Ottoman được hồi phục. Các hạm đội và lục quân của [[Venezia]], [[Ba Lan]], [[Áo]] và [[Nga]] bị đẩy lui. Quân đội Ottoman xâm chiếm [[Ukraina]] và [[Podolia]]. Năm [[1680]], đế quốc Ottoman đã đạt tới lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử đế quốc (11.5 triệu km²).
[[Tập tin:Bitwa pod Wiedniem Brandt.jpg|phải|nhỏ|[[Trận Wien|Cuộc bao vây Wien]] lần hai, năm 1683.]]
Năm [[1683]], đáp lời kêu gọi của [[Hungary]] chống lại hoàng đế [[Leopold I (đế quốc La Mã Thần thánh)|Leopold I nhà Habsburg]], sultan Mehmed IV đã ra lệnh cho tể tướng Kara Mustafa phái 200.000 quân ngược dòng sông [[sông Donau]], và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu (''Liên minh Thần thánh''), do vua [[Ba Lan]] [[Jan III Sobieski]] chỉ huy, đánh bại. Năm 1683, tại Beograd, sultan Mehmed IV ra lệnh thắt cổ tể tướng Kara Mustafa. Trận Wien đánh dấu sự bắt đầu của cuộc [[Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ]] (1683-1699) ở châu Âu.
 
Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman bị đại bại do sức tiến công từ Wien. Quân Venezia công hãm [[Athena]],. nhưng không may là trongTrong đợt pháo kích của họ ngày [[26 tháng 9]] năm [[1687]], một quả đạn rơi trúng ngôi đền [[Parthenon]] được xây vào [[thế kỷ 5 TCN]], lúc ấy được quân Ottoman dùng làm kho chứa thuốc súng. Ngày [[26 tháng 9]] năm [[1687]], ngôiNgôi đền lúc ấy còn khá nguyên vẹn lúc ấy bị nổ tung, để lại tình trạng cho đến bây giờ.
 
Cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với [[Hiệp ước Karlowitz]] ngày [[26 tháng 1]] năm [[1699]], và theo hiệp ước này, Đế quốc Ottoman phải nhượng cho Đế quốc Áo một số vùng lãnh thổ như [[Hungary thuộc Ottoman]].<ref>Norman Itzkowitz, ''Ottoman Empire and Islamic Tradition'', tr.84.</ref>
Dòng 116:
[[Tập tin:Prinz-Eugen-von-Savoyen1.jpg|phải|nhỏ|180px|Vương công [[Eugène xứ Savoie]] đã đánh tan tác quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Beograd, buộc Sultan phải giảng hòa.]]
 
[[Thời đại Tulip]], được đặt tên vì tình yêu của Sultan [[Ahmed III]] (1703-1730) với hoa [[tulip]] và được dùng như biểu tượng của triều đại thanh bình của ông. Trong giai đọan này, chính sách của đế chế với châu Âu có sự thay đổi. auSau khi quân Nga đánh thắng quân [[Đế quốc Thụy Điển|Thụy Điển]] trong [[trận Poltava]] vào năm [[1709]], vua Thụy Điển là [[Karl XII của Thụy Điển|Karl XII]] có lúc đã trốn sang xin người Thổ Nhĩ Kỳ cho tị nạn<ref>Jay Luvaas, ''Frederick the Great on the Art of War'', trang 357</ref>. Đất nước thanh bình từ năm 1718 đến 1730, sau khi Quân đội Thổ Ottoman đập tan tác quân Nga trong [[Trận Pruth|trận đánh]] tại [[sông Pruth]] năm 1712, Vương công [[Eugène xứ Savoie]] kéo quân Áo đánh chiếm thành phố [[Beograd]],<ref>Jay Luvaas, ''Frederick the Great on the art of war'', trang 50</ref> và [[Hiệp định Passarowits]] được ký kết sau đó mang đến một giai đoạn đình chiến. Sau đó, Đế quốc Ottoman cũng cải thiện hệ thống thành lũy ở các thành phố tiếp giáp các nước Balkan, để bảo vệ đất nước chống lại chủ nghĩa bành trướng của Châu Âu. Một số cải cách không dứt khoát cũng được tiến hành: hạgiảm [[thuế]]; cải thiện hình ảnh của các bang Ottoman; hình thái đầu tiên của đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tư nhân xuất hiện.
 
Vào năm [[1736]], Đế quốc Ottoman lại phải lâm chiến với Áo, và nước Áo thất bại.<ref>Jay Luvaas, ''Frederick the Great on the Art of War'', trang 322</ref> Lúc này danh tướng Eugène xứ Savoie đã qua đời, do đó tinh thần quân Áo suy sụp, tổ chức kém cỏi, do đónên đại bại, và đồng minh của họ là Nga đạt lợi thế hơn trong cuộc chiến tranh này.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 79</ref> Sau này, cuộc [[Chiến tranh Bảy năm]] ([[1756]] - [[1763]]) bùng nổ ở [[châu Âu]].<ref>[[Gerhard Ritter]], ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 96</ref> Vua [[Vương quốc Phổ|nước Phổ]] là [[Friedrich II củ Phổ|Fryedrich II Đại Đế]] phải chống chọi với liên quân [[Đế quốc Nga|Nga]] - [[Họ Habsburg|Áo]] - [[Pháp]] - [[Thụy Điển]]. Nền [[Chế độ quân chủ|quân chủ]] Phổ bị suy sụy nghiêm trọng, nhiều lãnh thổ của nước này bị rơi vào tay địch quân. Vua Friedrich II Đại Đế trong vòng nhiều năm đã đàm phán với Đế quốc Ottoman và người Tartar, nhưng rồi ông chẳng thấy quân Thổ - Tartar đâu. Tuyệt vọng, nhà vua quyết định chờ quân Thổ - Tartar kéo đến vào [[tháng 2]] năm [[1762]], nếu không ông sẽ nhận lấy cái chết anh dũng của [[Cato Trẻ]].<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 124</ref> Nhưng rồi liên quân chống Phổ đã tan rã và vua Friedrich II Đại Đế giành thắng lợi.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 126</ref> Sau năm [[1768]], khi tình hình [[Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva]] bất ổn, người Thổ Nhĩ Kỳ cũng can thiệp vào. Nhưng rồi ba nước [[Vương quốc Phổ]], Áo và Nga đã tiến hành [[cuộc chia cắt Ba Lan]] lần thứ nhất vào nắm 1772.<ref>Jay Luvaas, ''Frederick the Great on the Art of War'', trang 100</ref>
 
[[Công cuộc cải tổ quân sự Ottoman]] được bắt đầu với Sultan [[Selim III]] (1789-1807), vị vua tiến hành những nỗ lực lớn đầu tiên để hiện đại hóa quân đội gần biên giới Châu Âu. Những nỗ lực này, tuy vậy, đã bị cản trở bởi phong trào phản kháng bắt nguồn một phần từ các lãnh đạo tôn giáo và chủ yếu từ toán [[Ngự Lâm quân Janissary]] - toán kiêu binh này trở nên rất uy quyền và chẳng biết sợ vua. Với tư tưởng bảo thủ và lo sợ mất đại quyền, họ tiến hành cuộc [[bạo loạn Janissary]]. Do tiến hành một loạt [[cải cách]], Sultan Selim III bị lật đổ, Hoàng tử cổ hủ [[Mustafa IV|Mustafa]] lên làm vua - tức Sultan Mustafa IV, và sát hại phần lớn các công thần phò vua Selim III năm xưa. Dưới triều vua Mustafa IV, Quân đội Ottoman liên tục bị quân Nga đánh bại. Vào năm 1808, hai bên ngừng bắn, một cuộc binh biến nổ ra. [[Alemdar Mustafa Pasha]] - một công thần của cựu hoàng Selim III, kéo quân vào kinh thành Constantinopolis đánh Sultan Mustafa VI. Nhà vua bèn truyền lệnh cho hành quyết cựu hoàng Selim III và hoàng đệ Mahmud, nhưng không may Mahmud trốn thoát. Ông lên làm Sultan [[Mahmud II]] (1808 - 1839) và giết chết cựu hoàng Mustafa IV.<ref>Gábor Ágoston, Bruce Alan Masters, ''Encyclopedia of the Ottoman Empire'', trang 412</ref> Ông tiến hành thảm sát đẫm máu toán Ngự Lâm Quân Janissary, rồi giải tán luôn toán Ngự Lâm Quân này vaò năm 1826.