Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Nevada (BB-36)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 150:
Sau ngày D, lực lượng Đồng Minh hướng đến Toulon cho một cuộc tấn công đổ bộ thứ hai mang mật danh [[Chiến dịch Dragoon]]. Để yểm trợ cho chiến dịch này, nhiều tàu chiến được gửi từ các bãi biển Normandie đến [[Địa Trung Hải]]; bao gồm năm thiết giáp hạm: ''Nevada'', [[USS Texas (BB-35)|''Texas'']], [[USS Arkansas (BB-33)|''Arkansas'']] của Hoa Kỳ, [[HMS Ramillies (07)|''Ramillies'']] của Anh Quốc và [[Lorraine (thiết giáp hạm Pháp)|''Lorraine'']] của nước [[Pháp Tự Do]]; ba tàu tuần dương hạng nặng Hoa Kỳ :[[USS Augusta (CA-31)|''Augusta'']], [[USS Tuscaloosa (CA-37)|''Tuscaloosa'']] và [[USS Quincy (CA-39)|''Quincy'']] cùng nhiều tàu khu trục và tàu đổ bộ được gửi về hướng nam.<ref>Morison (1963), trang 414</ref>
 
''Nevada'' hỗ trợ cho chiến dịch này từ ngày [[15 tháng 8]] đến ngày [[25 tháng 9]] năm [[1944]], đấu pháo "tay đôi"<ref name=DANFS/> cùng "Big Willie": một pháo đài được tăng cường đáng kể bằng bốn khẩu pháo [[Pháo 340mm/45 Modèle 1912|340 mm/45 Modèle 1912]] bố trí trên hai tháp pháo đôi. Những khẩu pháo này được vớt lên từ chiếc thiết giáp hạm Pháp [[Provence (thiết giáp hạm Pháp)|''Provence'']] sau khi [[hạm đội Pháp]] bị [[đánh đắm Hạm đội Pháp tại Toulon|đánh đắm tại Toulon]]; những khẩu pháo này có tầm bắn xa đến 35 km (22 dặm) và chúng kiểm soát mọi ngả đường đi đến [[Quân cảng Toulon|cảng Toulon]]. Thêm nữa, chúng còn được củng cố bằng các tấm giáp dày dựng vào sườn núi [[Saint-Mandrier-sur-Mer|đảo Saint Mandrier]]. Do những mối nguy hiểm này, các con tàu yểm trợ hỏa lực trong chiến dịch này được lệnh phải san bằng pháo đài này.<ref>Karig, Burton and Freeland (1946), trang 386</ref> Bắt đầu từ ngày [[19 tháng 8]] và được tiếp tục trong suốt những ngày tiếp theo sau, một hoặc nhiều chiếc tàu chiến hạng nặng nả pháo vào nó kết hợp cùng không kích ném bom tầm thấp. Sang ngày [[23 tháng 8]], lực lượng bắn phá do ''Nevada'' dẫn đầu đã giáng được đòn "chí mạng" vào pháo đài trong suốt sáu giờ rưỡi bắn phá, khi ''Nevada'' nả đến 354 loạt đạn. Toulon thất thủ vào ngày [[25 tháng 8]], nhưng bản thân pháo đài, cho dù bản thân pháo đài dường như đã bị "băm nát ra thành nhiều mảnh", vẫn tiếp tục cầm cự được thêm ba ngày nữa.<ref>Karig, Burton and Freeland (1946), trang 387</ref>
[[Image:USS Nevada (BB-36) bombarding Iwo Jima.jpg|thumb|right|''Nevada'' bắn phá [[Iwo Jima]], ngày [[19 tháng 2]] năm [[1945]].]]
Sau đó ''Nevada'' lên đường hướng về New York để bảo trì các khẩu pháo của nó.<ref name=DANFS/> Ngoài ra, các khẩu pháo 356 mm/45 caliber trên tháp pháo số 1 được thay thế bằng pháo Mark 8 tháo dỡ từ tháp pháo số 2 của chiếc [[USS Arizona (BB-39)|''Arizona'']]; những khẩu pháo mới này được nâng cấp theo tiêu chuẩn Mark 12.<ref name="14/45 II">{{cite web | last = DiGiulian | first = Tony | title = 14"/45 (35.6 cm) Marks 8, 9, 10 and 12 | url = http://www.navweaps.com/Weapons/WNUS_14-45_mk10.htm | publisher = Navweaps.com | date = 27 tháng 3 năm 2008 | accessdate=9 tháng 10 năm 2008|dateformat=dmy }}</ref><ref name="campbell">Campbell (1985), trang 123</ref> Sau khi hoàn tất, nó khởi hành đi [[Thái Bình Dương]] và đi đến [[Iwo Jima]] ngày [[16 tháng 2]] năm [[1945]]<ref name=DANFS/> chuẩn bị cho việc bắn phá yểm trợ cuộc chiếm đóng hòn đảo này.<ref>{{cite web|url=http://www.ibiblio.org/pha/comms/1945-02.html |title=CINCPOA Communique No. 264, 19 tháng 2 năm 1945 |accessdate=3 tháng 9 năm 2008|dateformat=dmy|last= |first= |year=1945 |publisher=HyperWar}}</ref> Nó thực hiện nhiệm vụ nói trên cho đến tận ngày [[7 tháng 3]],<ref name=DANFS/> và trong khi nả pháo, nó tiến đến gần sát hòn đảo ở khoảng cách 550 m (600 yard) để cung cấp hỏa lực tối đa cho lực lượng trên bộ tấn công.<ref name=SSBN733/>