Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Lệnh Công”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Vuhoangsonhn đã đổi Phạm Chiêm thành Phạm Lệnh Công qua đổi hướng: Tên gọi trong ĐVSKTT
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Denthuytra.JPG|300px|nhỏ| Đình thờ Phạm Chiêm ở Thuỵ Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương]]
'''Phạm Lệnh Công''' (?-?), có giả thuyết cho rằng tên thật là '''Phạm Chiêm''', là một tướng lĩnh của nhà Ngô trong [[lịch sử Việt Nam]].
'''Phạm Chiêm''', còn gọi là Phạm Lệnh Công, là một công thần, một vị tướng của triều đại tiền Ngô vương. Ông còn là một hào trưởng của vùng Trà Hương, [[Nam Sách]], [[Hải Dương]]. Ông là một dũng tướng có sức cử được hàng ngàn cân, võ địch muôn người, thiện xạ bách phát bách trúng.
 
== Xuất thân ==
*QuêPhạm ôngLệnh Công quê ở Trà Hương, [[Nam Sách]], [[Hải Dương]], mộtcha vùng đấtHồng trùchâu phútướng quân lươngPhạm Chí nằmDũng.{{cần trêndẫn hướng chính từ thành [[Đại La]] ra cửa [[sông Bạch Đằng]].nguồn}}
*Ông sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống võ nghệ, cha ông là Phạm Chí Dũng là Hồng châu tướng quân.
 
== Theo Ngô Quyền ==
==Sự nghiệp==
Năm [[938]], [[Dương Đình Nghệ]] bị [[Kiều Công Tiễn]] sát hại. ÔngPhạm Lệnh Công theo [[Ngô Quyền]] kéo quân ra thành [[Đại La]] tiêu diệt kẻ phản bội.{{cần dẫn nguồn}} Do lo sợ bị tiêu diệt, Kiều Công Tiễn đã cầu cứu [[nam Hán|nhà Nam Hán]]. Vua Nam Hán lúc bấy giờ là [[Lưu Cung]] cho con trai là Hoằng Thao kéo quân theo đường thủy sang giúp (thực chất là nhân cơ hội chiếm lấy Giao Châu). Đầu mùa đông năm 938, cùng với Ngô Quyền dẹp xong bọn phản loạn Kiều Công Tiễn và chuẩn bị toàn lực để đối phó với sự xâm lăng của quân Nam Hán.
===Bối cảnh lịch sử===
Từ năm [[907]] ở [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] khi [[nhà Đường]] mất thì lần lượt nổi lên là các nhà [[nhà Hậu Lương|Hậu Lương]], [[Hậu Đường]], [[Hậu Tấn]], [[Nhà Hán|Hậu Hán]], [[Hậu Chu]] tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quý hay là [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ Đại]].
 
Theo lệnh của Ngô Quyền, Phạm Lệnh ôngCông cùng với quân sĩ đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòng [[sông Bạch Đằng]] và nhử quân địch vào khu vực này khi [[thủy triều]] lên.{{cần dẫn nguồn}} Quân giặc thấy quân của ôngNgô Quyền chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có thể dễ thắng lên hùng hổ tiến vào. Đợi đến khi thủy triều xuống ông mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh. Thuyền chiến lớn của quân Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết. Quân Nam Hán thua chạy, còn Hoằng Thao bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ. Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược.
Năm [[911]], Lưu Cung làm Nam Bình Vương do nhà Hậu Lương phong cho, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại [[Giao Châu]]. Được ít lâu nhân có việc bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu ([[917]]) cải quốc hiệu là Nam Hán.
 
ÔngPhạm Lệnh Công được Ngô Quyền trọng dụng và phong cho đến chức Đông Giáp tướng quân (tức là ông tướng cai quản vùng xứ Đông).{{cần dẫn nguồn}}
Năm Quý Mùi ([[923]]) Lưu Cung sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ (khi đó chấp nhận làm Tiết độ sứ của nhà Hậu Lương tại Giao Châu mà không thần phục nhà Nam Hán), rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
 
=== Che chở Ngô Xương Ngập= ==
Năm Tân Mão ([[931]]) Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước (cha của Khúc Thừa Mỹ) nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết độ sứ. Được gần 7 năm, Dương Đình Nghệ bị người bộ tướng là Kiều Công Tiễn giết đi mà cướp lấy quyền.
Năm [[944]], [[Ngô Quyền]] mất. Dương Tam Kha thấy Ngô Xương Ngập tài năng bình thường bèn cướp ngôi, lập em Xương Ngập và [[Ngô Xương Văn|Xương Văn]] làm thừa tự. [[Ngô Xương Ngập]] thấy biến chạy trốn về nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương nhờ che chở.<ref>[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt05.html Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển V]</ref> Phạm Lệnh Công nhiều lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng ẩn láu, khiến [[Đỗ Cảnh Thạc]] và [[Dương Cát Lợi]] cho quân về đuổi bắt mà không làm gì được.{{cần dẫn nguồn}}
 
Năm 950, [[Ngô Xương Văn]] cướp lấy ngôi vua, sang năm cho người về Trà Hương đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng cai quản đất nước. Tướng
===Tham gia trận đánh lịch sử===
Năm [[938]], [[Dương Đình Nghệ]] bị [[Kiều Công Tiễn]] sát hại. Ông theo [[Ngô Quyền]] kéo quân ra thành [[Đại La]] tiêu diệt kẻ phản bội. Do lo sợ bị tiêu diệt, Kiều Công Tiễn đã cầu cứu [[nam Hán|nhà Nam Hán]]. Vua Nam Hán lúc bấy giờ là [[Lưu Cung]] cho con trai là Hoằng Thao kéo quân theo đường thủy sang giúp (thực chất là nhân cơ hội chiếm lấy Giao Châu).
 
== Gia đình ==
Đầu mùa đông năm 938, cùng với Ngô Quyền dẹp xong bọn phản loạn Kiều Công Tiễn và chuẩn bị toàn lực để đối phó với sự xâm lăng của quân Nam Hán.
Theo gia phả địa phương, Phạm Lệnh Công là cha của sứ quân [[Phạm Bạch Hổ]], người sau này quy phục [[Đinh Tiên Hoàng]], đồng thời cũng là ông của các tướng [[Phạm Hạp]] và [[Phạm Cự Lạng]].{{cần dẫn nguồn}}
 
== Thờ phụng ==
Theo lệnh của Ngô Quyền ông cùng với quân sĩ đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòng [[sông Bạch Đằng]] và nhử quân địch vào khu vực này khi [[thủy triều]] lên. Quân giặc thấy quân của ông chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có thể dễ thắng lên hùng hổ tiến vào. Đợi đến khi thủy triều xuống ông mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh. Thuyền chiến lớn của quân Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết. Quân Nam Hán thua chạy, còn Hoằng Thao bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ. Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược.
 
Trên dòng sông này [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[980]], vua nhà Tống hạ chiếu phát quân sang đánh [[Đại Cồ Việt]]. [[Lê Đại Hành]] cử [[Phạm Cự Lạng]] (Lượng) là cháu ông, em của Phạm Hạp làm đại tướng quân chỉ huy hai trận đánh ở Bạch Đằng và Chi Lăng, quân của Đại Cồ Việt thắng lớn, quân Tống phải rút lui về nước.
 
Ông được Ngô Quyền trọng dụng và phong cho đến chức Đông Giáp tướng quân (tức là ông tướng cai quản vùng xứ Đông).
 
===Che chở Ngô Xương Ngập===
Năm [[944]] [[Ngô Quyền]] mất; con trai cả của Ngô Quyền là [[Ngô Xương Ngập]] thấy biến chạy trốn về nhà ông ở Trà Hương, nhờ ông che chở. Ông đã ba lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng núi Hun Sơn đào mà ẩn láu. Chính vì thế mà ba lần [[Dương Tam Kha]] sai [[Đỗ Cảnh Thạc]] và Dương Cát Lợi cho quân về đuổi bắt mà không làm gì được. Sau này [[Ngô Xương Văn]] giành lại được ngôi vua cho người về Trà Hương đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng cai quản đất nước. Khu vực núi Hun Sơn sau trở thành một căn cứ quân sự và thuộc phạm vi chiếm đóng của con ông là [[Phạm Bạch Hổ]] thời [[12 sứ quân]].
 
==Các con==
Phạm Chiêm có 2 người con trai là Phạm Man và [[Phạm Bạch Hổ]].
*[[Phạm Man]] là Tham chính đô đốc đời Nam Tấn vương [[Ngô Xương Văn]].
*[[Phạm Bạch Hổ]] là công thần hai triều [[nhà Ngô]] và [[nhà Đinh]].
*Cháu ông, [[Phạm Hạp]] và [[Phạm Cự Lạng]], đều là các tướng giỏi được người đời ca tụng.
*Cháu gái ông, [[Phạm Thị Ngọc Dung]], con gái của [[Phạm Bạch Hổ]] (910-962), là vợ của Ngô Xương Ngập và sinh ra [[Ngô Xương Xí]], sau trở thành Sứ quân thứ nhất trong [[12 sứ quân]].
 
==Tôn vinh==
[[Tập tin:Lehoi2006.JPG|300px|nhỏ| Lễ hội dâng hương tế Phạm Chiêm ở Thuỵ Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương]]
Ở Trà Hương dân làng suy tôn ôngPhạm Lệnh Công là [[Thành hoàng|Thành hoàng làng]], dân làng lập đền thờ ông (nay là làng Thụy Trà, xã Nam Trung, huyện [[Nam Sách]], tỉnh [[Hải Dương]]). Hàng năm cứ vào ngày 11 và 12 tháng Giêng dân làng và khách thập phương lại tổ chức lễ hội, để ôn lại công trạng của ông.
 
Nhận xét về ông, sử thần [[Ngô Sĩ Liên]] (tác giả cuốntrong ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]''), đánh giálời rấtkhen caongợi côngPhạm trạngLệnh của ông và ca ngợi ôngCông là một người "trung quân". Ông viết:
:"Dụng tâm của Phạm Lệnh Công thật là trung. Tam Kha là kẻ gian thần mà đuổi con đích của vua để cướp ngôi, lấy Xương Văn làm con mình, chẳng qua là lời lẽ che đậy giả dối, ai mà biết được ? Vả lại, lúc ấy người trong nước ai cũng xem Tam Kha là vua, mà Lệnh Công dám che giấu cho Xương Ngập, muốn cho dòng dõi họ Ngô không tuyệt tự, việc của Trình Anh, Chữ Cửu lại thấy ở đây. Ai bảo một nước rộng lớn mà không có trung thần nghĩa sĩ."
*Nhà sử học [[Trần Quốc Vượng]] đánh giá ông là một người "Trung quân nghĩa sĩ bậc nhất nước nhà".{{cần dẫn nguồn}}
*Những người Việt mang họ Phạm tôn thờ ông là một trong những thủy tổ có công với đất nước và dòng tộc.
 
== Xem thêm ==
*[[Phạm Bạch Hổ]]
*[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt05.html Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư, quyển V]
*[http://www.hopham.org/index.php?mn=newsdetail&key=ho-pham-voi-dat-nuoc&newsid=329&type=7 Cháu ông - Phạm Cự Lạng]
*[http://www.youtube.com/watch?v=TwI30ZFofmM Lễ tế Thành hoàng làng - Phạm Chiêm, Trà Hương - Thụy Trà]
 
==Tham khảoChú thích ==
{{tham khảo}}
 
== Liên kết ngoài ==
*[http://www.youtube.com/watch?v=TwI30ZFofmM Lễ tế Thành hoàng làng - Phạm Chiêm, Trà Hương - Thụy Trà]
 
[[Thể loại:Tướng nhà Ngô]]