Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mèo rừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
n sửa chính tả 3, replaced: Châu Âu → châu Âu (8), Châu Á → châu Á (2), Châu Phi → châu Phi (4) using AWB
Dòng 22:
}}
 
'''Mèo rừng''' ([[danh pháp hai phần|tên khoa học]]: '''''Felis silvestris'''''), là một giống mèo nhỏ (''[[Felinae]]'') có nguồn gốc từ Châuchâu Âu, Tây Á và Châuchâu Phi. Nó chuyên ăn thịt các loài động vật có vú nhỏ, chim, thú tương đương hoặc nhỏ hơn. Nó phân bố ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới, đôi khi nó được nuôi như những con mèo nhà (Felis silvestris catus). Nó thích nghi được với nhiều môi trường sống trên thế giới, từ lục địa đến hoang đảo.
 
Môi trường sống từ thuở sơ khai của nó là rừng rậm, xavan và [[đồng cỏ|thảo nguyên]].
Dòng 34:
Mèo rừng có hình dáng và thể trạng tương tự như một con mèo đã được thuần hóa, tuy nhiên màu sắc lông của những con mèo hoang dã này có màu vàng nhạt, sọc nâu đen hoặc có đốm, phần bên dưới của nó màu xám hoặc đôi khi là màu đen tuyền. Theo các nhà khoa học, đó là kết quả của việc Lai tự nhiên với gióng mèo nhà.
 
Mèo rừng dài khoảng 45–80 cm (18-31 inches), và có trọng lượng từ 3–6 kg (6,6-13 pounds). Vai nó rộng trung bình khoảng 35 cm (14 inches), và chiều dài đuôi là 30 cm (12 inches). Các loài ở Châuchâu Phi và Châuchâu Á có kích thước nhỏ ở Châuchâu Âu, với bộ lông ngắn hơn và nâu nhẹ hơn.
 
Mèo rừng cũng có những đặc tính giống như mèo nhà, như: những cử chỉ âu yếm nhau, tiếng kêu, cách đẻ con và nuôi con. Ngoại trừ khi đang trong mùa giao phối, nó thường có xu hướng thích tĩnh lặng, không muốn bất kỳ ai đến gần.
Dòng 50:
==Vòng đời và sinh sản==
 
Mèo rừng thường chỉ đẻ 1 lứa mỗi năm, nhưng nó có thể đẻ thêm lứa thứ hai nếu lứa đầu tiên chết quá sớm. Mèo rừng Châuchâu Âu thường đẻ vào khoảng giữa tháng 2 và tháng 3, Mèo rừng Nam Phi thì đẻ vào lúc mùa mưa đến-lúc thức ăn dồi dào nhất. Trái lại với Nam Phi, mèo Bắc Phi đẻ quanh năm, không có lựa chọn như mèo Nam Phi.
 
Chu kỳ kinh nguyệt của mèo rừng kéo dài từ 2-8 ngày và mang thai từ 56-69 ngày (mèo Châuchâu Phi ngắn hơn so với mèo Châuchâu Âu).
 
Trước khi sinh nở, mèo mẹ thường chuẩn bị làm ổ ở trong một hang động hoặc ở sâu dưới đất. Trong tự nhiên, Mèo rừng thường sinh từ 1-5 con, trong đó 3-4 con là phổ biến nhất. Lúc mới sinh, mèo con nặng từ 75-150 gram (2,6-5,3 oz), nó không mở mắt và rất yếu ớt.
Dòng 62:
==Phân bố==
 
Mèo rừng Châuchâu Âu được tìm thấy trên toàn bộ lãnh thổ Châuchâu Âu, không kể Ireland, bán đảo Scandinavia và một số đảo nhỏ. Bây giờ, nó chỉ còn sót lại tại một số khu vực nhỏ và rải rác khắp Châuchâu Âu, từ Bồ Đào Nha và miền bắc Scotland đến Thổ Nhĩ Kỳ và dãy núi Carpathian. Nhiều quần thể còn tồn tại lại ở Sicilia và Sardegna.
 
Giống mèo Châuchâu Phi được tìm thấy trên khắp lục địa, ngoại trừ sa mạc và rừng rậm nhiệt đới, nó còn phân bố ở cả khu vực Trung Đông, đặc biệt là ở Iran. Giống mèo Châuchâu Á thường phân bố ở phía Đông, từ Pakistan đến Tây Bắc Ấn Độ và từ Trung Á đến Mông Cổ, mèo rừng có thể thích nghi với nhiều môi trường sống hoàn toàn khác nhau.
 
Mèo rừng đòi hỏi một môi trường sống có độ che phủ rừng cao để nó có thể dễ dàng phục kích và săn bắt con mồi, bao gồm: cây bụi, núi đá hoặc đất nông nghiệp. Chúng thường được tìm thấy trong rừng nhiệt đới đang rụng lá, savannah và gần những đầm lầy.
Dòng 74:
Các nguồn đe dọa đến Mèo rừng hiện nay là Sự lai tạo với loài mèo nhà, bệnh dịch và sự cạnh tranh nguồn thức ăn với các loài khác.
 
Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất đối với Mèo rừng là môi trường sống ngày càng bị thu hẹp lại do con người chặt phá rừng bừa bãi để làm đất nông nghiệp, đường sá (mặc dù một số khu rừng của Châuchâu Âu đang tăng diện tích lên), và nạn khủng bố cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng loài mèo rừng của thế giới.
 
Hiện nay, mèo rừng đang nằm trong Sách Đỏ về số lượng loài sắp tuyệt chủng và đang được [[Quỹ động vật hoang dã]] WWF bảo tồn tự nhiên.