Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiệp ước Xô-Đức”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Minhthai1 (thảo luận | đóng góp)
n sửa chính tả 3, replaced: Châu Âu → châu Âu (11) using AWB
Dòng 51:
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-R69173, Münchener Abkommen, Staatschefs.jpg|nhỏ|trái|256px|Hitler và đại diện các nước Anh, Pháp tại lễ ký hiệp Hiệp định Munich 1938]]
 
[[Hiệp ước München|Hiệp định Munich]] 1938 không chỉ mở đường cho nước Đức Quốc xã chiếm đóng [[Tiệp Khắc]] mà còn "bật đèn xanh" cho quân đội Đức tại Đông Phổ chiếm vùng Klaipeda của [[Litva]], áp đặt một hiệp ước kinh tế bất bình đẳng với Romania và khuyến khích nước Ý phát xít của [[Benito Mussolini]] xâm lược [[Albania]]. Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của Châuchâu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp, thành thực tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ Édouard Daladier và Neville Chamberlain. Họ đòi Liên Xô bảo đảm sự giúp đỡ nếu nước Đức Quốc xã tiến công về phía Tây nhưng lại lảng tránh vấn đề giúp đỡ Ba Lan nếu nước Đức gây hấn ở phía Đông. Chính thái độ này của Anh và Pháp đã khuyến khích các nước Đức, Ý, Nhật ký kết với nhau tại Berlin bản "[[Hiệp ước chống quốc tế cộng sản]]" ngày 27 tháng 9 năm 1940. Toàn bộ tình hình trên đã buộc chính phủ Liên Xô phải có những hành động kiên quyết trong việc tìm con đường để đảm bảo cho nền anh ninh đất nước. Con đường đó là con đường lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù, khi Liên Xô quyết định chấp nhận đề nghị (nhiều lần) của Quốc xã ký với họ hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.<ref>Lê văn Quang, ''Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945'', Nhà xuất bản Giáo dục, 2003, trang 157</ref> Những lời đề nghị này đã có từ ngày 20 tháng 8 năm 1936 nhưng chỉ đến khi thấy không còn biện pháp ngoại giao nào khác để đẩy lùi chiến tranh; ngày 23 tháng 8 năm 1939, Nhà nước Liên Xô mới cử phái đoàn do Bộ trưởng dân ủy ngoại giao V. M. Molotov dẫn đầu đón tiếp phái đoàn Đức của Ribbentrop tại Moskva để đàm phán với nước Đức Quốc xã.
 
Về phía Đức Quốc xã, để chuẩn bị cho Chiến tranh thế giới thứ hai, Hitler đặc biệt quan tâm đến vấn đề làm sao tránh cho nước Đức thoát khỏi tình cảnh phải tiến hành chiến tranh cùng lúc trên hai mặt trận như trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Để đạt được mục đích ấy, trong quan hệ với các cường quốc tư bản phương Tây, Hitler đã nói: ''"Phải dùng con ngáo ộp [[Bolshevik]] để đe dọa các cường quốc Versailles làm cho họ tin rằng, nước Đức là con đê cuối cùng ngăn chặn làn sóng đỏ. Đối với chúng ta, đó là cách duy nhất để vượt qua thời kì khủng hoảng này, thanh toán [[hòa ước Versailles|hiệp ước Versailles]] và tái vũ trang.<ref>G.Deborin, Chiến tranh thế giới thứ hai (tiếng Pháp). Nhà xuất bản Ngoại văn (1966), trang 12</ref>"''. Nhưng mặt khác, Hitler cũng chủ trương tạm hòa hoãn với Liên Xô để tập trung lực lượng chống các cường quốc tư bản phương Tây, trước hết là Anh-Pháp. Kết quả của cuộc đàm phán là bản Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô, gọi tắt là Hiệp ước Xô-Đức. Mặc dù bản hiệp ước có giá trị 10 năm nhưng đến tháng 11 năm 1940, khi phái đoàn Liên Xô do Bộ trưởng Dân ủy ngoại giao V. M. Molotov dẫn đầu sang Đức để bàn việc thi hành hiệp ước này thì người Đức lại khước từ. Và hiệp ước này thực sự trở thành tờ giấy lộn từ ngày [[22 tháng 6]] năm 1941.<ref>A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. NXB Tiến Bộ. Moskva. 1984. trang 22-23.</ref><ref>I. L. Maisky. Ai tiếp tay cho Hitler. NXB Tiến bộ. Moskva. 1965. trang 202.</ref>
Dòng 70:
Tuy nhiên quan hệ kinh tế khó có thể thay thế các quan hệ chính trị ngoại giao đã có những dấu hiệu khác thường. Ngày 10 tháng 3 năm 1939, [[Iosif Vissarionovich Stalin|Josef Stalin]] đọc một bài diễn văn dài trong Đại hội Đảng lần thứ 18. Ba ngày sau, Đại sứ Đức ở Nga, [[Friedrich von der Schulenburg]], gửi về [[Berlin]] một bản báo cáo dài, cho biết: "Trong tình hình quốc tế hiện nay mà họ cho là nghiêm trọng, Chính phủ Xô Viết tìm cách tránh cuộc xung đột giữa Liên Xô với Đức". Anh bỏ qua, nhưng Đức để ý đến việc này.<ref>Friedrich von der Schulenburg. Quan hệ ngoại giao giữa Đức và Liên Xô 1939-1941. Thüringen 1949. trang 389.</ref>
 
Stalin tin rằng Anh thích liên minh với Ba Lan hơn là với Liên Xô. Ông cũng cho rằng Thủ tướng Anh [[Arthur Neville Chamberlain]] muốn đẩy Liên Xô ra ngoài rìa chính trường Châuchâu Âu. Tuy thế, chính sách ngoại giao của Liên Xô vẫn là để mở cho cả hai bên Đức và Anh-Pháp. Ngày [[16 tháng 4]] năm [[1939]], Ngoại trưởng [[Maxim Litvinov|Litvinov]] của Liên Xô chính thức đề nghị Hiệp ước Ba Bên gồm Anh, Pháp và Nga. Đấy là nỗ lực cuối cùng của Litvinov nhằm tạo mối liên minh chống Đức. Không nước nào ở Đông Âu, kể cả Ba Lan, có đủ tiềm lực duy trì một mặt trận ở vùng này. Tuy thế, đề nghị của Liên Xô đã gặp phải thái độ nghi ngại của Anh và Pháp.
 
=== "Sứ mạng Kandelaki" ===
Dòng 113:
Đáp lại sự chiếm đóng xứ Bohemia và sáp nhập nó vào nước Đức, Chính phủ Liên Xô đã lưu ý trong Bị vong lục ngày 18 tháng 3: ''"... Nếu không có bất kỳ sự đồng thuận nào của người Tiệp, sự chiếm đóng của quân đội Đức đối với Tiệp Khắc sẽ là tùy tiện, bạo lực và hung hãn theo kiểu các nhà nước german thời trung cổ."''
 
Ngày 18 tháng 3, cùng khi nhận được những tin tức về tối hậu thư của nước Đức Quốc xã với Romania, Phó dân uỷ Ngoại giao Liên Xô Litvinov thông qua các đại sứ ở Moskva đã đề xuất triệu tập một hội nghị sáu nước: Liên Xô, Anh, Pháp, Romania, Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ đến Đức để ngăn chặn, không cho sự xâm lăng tiến triển thêm. Tuy nhiên, phía Anh thấy đề nghị "hơi sớm" và đề xuất một giải pháp hạn chế là tuyên bố chung của các nước Anh, Pháp, Liên Xô và Ba Lan về sự quan tâm của các quốc gia này trong việc bảo tồn sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia miền Đông và Đông Nam Châuchâu Âu.
 
Ngày 16 tháng 4, Litvinov đề nghị ký một hiệp ước quân sự ba bên về hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước Anh, Pháp và Liên Xô, kể cả Ba Lan nếu họ muốn tham gia. Tuy nhiên, trong bức giác thư trả lời ngày 8 tháng 5, Chính phủ Anh đã có sự đáp ứng tiêu cực. Việc khước từ của Anh củng cố mối e ngại của Liên Xô rằng Chamberlain không muốn lập liên minh với Nga để ngăn chặn Hitler chiếm Ba Lan. Ngày 17 tháng 4, Phó dân ủy Litvinov với tư cách là Đại sứ Liên Xô tại Berlin đã cùng với Phó ủy viên ngoại giao Liên Xô Merekalov đến gặp Thư ký Văn phòng đối ngoại Nhà nước Đức Erhack von Weizsacker. Trong cuộc gặp, phía Liên Xô lưu ý những kháng nghị của mình về các hành động chiến tranh nhân danh nước Đức chống lại Tiệp Khắc có thể dẫn đến sự đổ vỡ các hợp đồng cung cấp của Liên Xô về pháo binh, súng cao xạ, hệ thống điều khiển phát hỏa cùng các bản thiết kế trong đó mô tả đầy đủ các quy trình và vật liệu để sử dụng vào mục đích quân sự, tổng cộng trị giá hơn 3.500.000 USD. Vào cuối cuộc họp, những đàm thoại về các chủ đề chính trị nói chung được Weizsacker khởi xướng. Trong đó, có đoạn như sau:
Dòng 140:
 
Cuộc đàm phán chính trị tay ba giữa Liên Xô, Anh và Pháp bắt đầu từ ngày 10 tháng 4. Kết quả của nó là bản dự thảo của Liên Xô ngày 2 tháng 6 kêu gọi các bên ký kết hiệp định về một Liên minh quân sự có hiệu lực trong các trường hợp sau đây:
* Trong trường hợp có một cuộc tấn công của Đức vào một trong các cường quốc Châuchâu Âu tham gia ký kết hiệp định.
* Trong trường hợp chống lại sự xâm lược của Đức và Thổ Nhĩ Kỳ đối với các nước Bỉ, Ba Lan, Latvia, Estonia, Hy Lạp, Romania và Phần Lan. Tất cả các bên ký kết hiệp định có trách nhiệm thực hiện sứ mạng bảo hộ này;
* Trong trường hợp một bên tham gia Hiệp định lâm vào cuộc chiến với một quốc gia khác, yêu cầu có sự hỗ trợ, cung cấp của các nước tham gia liên minh tay ba.
Dòng 207:
:''"Mặc dù những tài liệu được phổ biến rộng rãi vào thời gian đó không chỉ ở Moskva mà còn ở cả phương Tây rằng Anh và Pháp đã không làm gì để thuyết phục Ba Lan đồng ý cho quân đội Xô Viết đi qua lãnh thổ của mình nhằm bảo vệ họ chống lại quân Đức. Những bài báo xuất bản gần đây cho thấy sự việc không hẳn là như vậy. Trong trường hợp đó, Anh và Pháp đã không thể đi trên một đoạn đường xa hơn để đến với họ. Từ các tài liệu này, có thể thấy rõ ràng rằng Ba Lan đã có sự dại dột không thể tưởng tượng được về chính trị."''<ref>[http://web.archive.org/web/20081112013018/http://www.ruslib.com:80/MEMUARY/GERM/shirer1.txt_Piece40.42 William Shirer. Sự hưng thịnh và suy tàn của Đế chế thứ ba.]</ref>.
 
Đồng thời với các cuộc đàm phán Moskva, chính phủ Anh đã dẫn cuộc đàm phán tại London với các đại diện của Đức đi đến một thỏa thuận trong đó có thể nhận thấy những lợi ích đặc biệt của Đức ở Đông và Đông Nam Châuchâu Âu. Ngoài ra, Anh cũng sẵn sàng cho phép Đức sử dụng "các thuộc địa tại khu vực châu Phi". Các cuộc đàm phán đã kết thúc trong sự thất bại vì trên thực tế Đức đã từ chối nhìn nhận các đề nghị của Anh do sự đối lập đã khá sâu sắc.<ref>[http://www.cultinfo.ru/fulltext/1/001/008/071/286.htm Các cuộc đàm phán tại London]</ref>.Trong tuyên bố chính thức của mình, Chính phủ Liên Xô cho rằng không thể tin tưởng vào đối tác của họ tại các cuộc đàm phán và Moskva đã đồng ý xem xét đề xuất của Đức cho việc ký kết các Hiệp ước không xâm lược giữa Đức Quốc xã và Liên Xô.<ref>[http://www.cultinfo.ru/fulltext/1/001/008/078/444.htm "Các cuộc đàm phán ở Moskva" ('Московские переговоры')]</ref>
 
== Tình hình chính trị ở Đông Âu ==
Dòng 259:
Cũng giống như trong những giai đoạn thời xưa của các [[vua Đức]] và [[Sa hoàng|Sa hoàng Nga]], một lần nữa Đức và Nga đã đồng ý phân chia Ba Lan. Và Hitler đã cho Nga được toàn quyền hành động ở vùng đông Baltic.
 
Cuối cùng, ở đông-nam Châuchâu Âu, phía Liên Xô nhấn mạnh họ quan tâm đến [[Bessarabia]], lãnh thổ mà Liên Xô mất về tay Rumani năm [[1919]], và Đức tuyên bố họ không quan tâm đến lãnh thổ này. Đây là nhượng bộ mà sau này Đức sẽ lấy làm hối tiếc: họ mất nguồn dầu hỏa quan trọng.
 
=== Đánh giá tính pháp lý của hiệp ước ===
Dòng 292:
Cách giải thích này xem những hành động của Stalin chỉ có tính thực dụng đối với triều đình của mình. Theo đó, Stalin đã có một thời gian để lựa chọn giữa một mặt là Đức và mặt khác là Anh, Pháp. Nhưng sau này, khi phải đối diện với hệ tư tưởng không phù hợp, ông muốn giữ khoảng cách với chiến tranh bằng những lợi ích có tính "bạn bè" với Đức, đặc biệt là việc tranh thủ các lợi ích chính trị Liên Xô tại Đông Âu. Ý kiến này đã được [[Winston Churchill]] nêu ra ngay sau khi ký kết hiệp ước.
 
Theo ý kiến của Giáo sư sử học Jeffrey Roberts thuộc Đại học Ailen, chính sách thỏa hiệp của Liên Xô dựa trên cơ sở tính thực tế mong muốn hạn chế khu vực ảnh hưởng của Đức. Trong đó sẽ ưu tiên đảm bảo nhu cầu về an ninh của quốc gia, chủ yếu là để giữ cho đất nước không bị hút vào cuộc chiến và để hạn chế sự mở rộng của Đức về phía đông.<ref>[http://web.archive.org/web/20120105064447/http://vivovoco.rsl.ru/VV/PAPERS/HISTORY/ROBERTS.HTM J. Roberts. Khu vực ảnh hưởng và chính sách đối ngoại của Liên Xô năm 1939-1945. Hệ tư tưởng, nhữung tính toán và sự ngẫu hứng. (Дж. Робертс. Сферы влияния и советская внешняя политика в 1939—1945 гг. идеология, расчет и импровизация)]</ref> Cũng cần lưu ý là nhiều nhà sử học cho rằng nước Anh, Pháp, do có quan điểm riêng về lịch sử đối lập với Liên Xô, nên đã tập trung hướng các nỗ lực xâm lược của Đức về phía đông của Châuchâu Âu. Nói chung, mỗi tác giả đều theo cách riêng của mình giải quyết các câu hỏi về mối quan hệ giữa các hành động của những thủ thuật của Stalin và "buộc" cho ông đã hành động theo "chủ nghĩa thực dụng" và động cơ bành trướng ý thức hệ.
 
=== Về những lựa chọn có thể thay thế cho việc ký kết hiệp ước ===
Dòng 358:
=== [[Vyacheslav Mikhailovich Molotov|V. M. Molotov]], Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dân uỷ kiêm Bộ trưởng dân ủy Ngoại giao ===
 
Tầm quan trọng chủ yếu của Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức trong thực tế là hai quốc gia lớn nhất châu Âu đã đồng ý chấm dứt sự thù địch, loại bỏ sự đe dọa của chiến tranh và cùng chung sống hòa bình. Do đó, các khu vực xung đột quân sự ở châu Âu có thể thu hẹp lại. Thậm chí nếu chúng tôi không thể tránh một cuộc xung đột quân sự ở châu Âu, thì quy mô của những hành động quân sự này cũng sẽ được hạn chế. Những nước không hài lòng với hiệp ước này là những nước muốn "đốt ngôi nhà chung" Châuchâu Âu trong một cuộc chiến tranh, những người lập luận một cách đơn giản rằng ánh sáng hòa bình của một Châuchâu Âu quý tộc chỉ nhìn thấy được trong sự bùng nổ các hoạt động quân sự.<ref>[http://web.archive.org/web/20150326041908/http://lib.ru/HISTORY/FELSHTINSKY/sssr_germany1939.txt Chủ đề: Quan hệ Xô - Đức 1939—1941 (Các tài liệu và dẫn chứng)]</ref>
 
Thỏa thuận này có được sau thất bại của cuộc đàm phán Liên Xô-Anh-Pháp cho thấy rằng hiện nay, không thể quyết định vấn đề quan trọng của quan hệ quốc tế, đặc biệt là các vấn đề của Đông Âu, mà không có sự tham gia tích cực của Liên bang Xô viết, rằng bất kỳ nỗ lực để phá vỡ Liên Xô và giải quyết các vấn đề sau lưng Liên Xô sẽ chắc chắn kết thúc bằng sự thất bại. Hiệp ước không xâm lược Đức-Xô có nghĩa là thay đổi sự phát triển của châu Âu... Thỏa thuận này không những cho chúng ta loại trừ các mối đe dọa chiến tranh với Đức... mà nó sẽ cho chúng ta những cơ hội mới để phát triển các lực lượng vũ trang, củng cố vị trí của chúng ta và phát huy liên tục những ảnh hưởng của Liên Xô trong quan hệ quốc tế.<ref>[http://web.archive.org/web/20150828052151/http://militera.lib.ru/research/meltyukhov/index.html Trích phát biểu của V. M. Molotov tại Xô viết tối cao Liên Xô về việc phê chuẩn Hiệp ước không xâm lược Đức-Xô. Dẫn theo M. I. Meltyuhov Những cơ hội bị bỏ lỡ của Stalin. Liên Xô và các đấu tranh cho Châu Âu. 1939-1941. Moskva. 2000]</ref>
Dòng 398:
Nhưng có đúng thế không? Từ lúc bấy giờ cho đến nay, tranh luận đã nổ ra về điểm này. Sự thực là bản hiệp ước đã cho Liên Xô một khoảng thời gian để củng cố quốc phòng là điều hiển nhiên. Chỉ trong một thời gian ngắn sau hiệp ước Liên Xô đã có vị thế quân sự vững mạnh chống lại Đức phía bên trong biên giới Liên Xô, kể cả những căn cứ quân sự ở các quốc gia vùng Baltic như Latvia, Estonia và Phần Lan. Và quan trọng nhất, hiệp ước đảm bảo cho Điện Kremlin là nếu sau này Liên Xô bị Đức tấn công thì các cường quốc phương Tây lúc ấy đã tỏ rõ đường lối chống Đức, và Liên Xô sẽ không phải đơn độc chống chọi với Đức như Stalin đã lo sợ suốt mùa hè [[1939]].
 
Tất cả những điều trên là sự thật nhưng vẫn có lập luận theo cách khác. Vào lúc Hitler tấn công Liên Xô, quân đội của Ba Lan và Pháp cùng lực lượng viễn chinh Anh trên lục địa Châuchâu Âu đã bị tiêu diệt, và Đức có mọi nguồn lực toàn Châuchâu Âu để huy động mà không bị trói tay vào mặt trận nào của phương Tây. Suốt các năm [[1941]], [[1942]] và [[1943]], Stalin than phiền một cách cay đắng rằng không có mặt trận nào khác chống lại Đức và rằng Liên Xô phải hứng chịu hầu như toàn bộ sức mạnh của Quân lực Đức. Trong khoảng thời gian [[1939]]-[[1940]], còn có một mặt trận của phương Tây để chia bớt sức mạnh của Đức và Ba Lan không thể bị tràn ngập chỉ trong nửa tháng nếu Liên Xô hỗ trợ cho họ thay vì đưa quân vào các vùng đất trong biên giới cũ của nước Nga Sa hoàng.
 
Hơn nữa, có lẽ đã không có chiến tranh nếu Hitler biết sẽ phải đương đầu với cả Liên Xô, Ba Lan, Anh và Pháp. Xét qua lời khai của các tướng lĩnh Đức trước Tòa án Nüremberg, ngay cả khi các nước này tuy hiền hòa về chính trị nhưng vẫn có thể ngăn chặn được cuộc chiến của Đức chống lại một liên minh hùng mạnh như thế. Theo báo cáo của đại sứ Pháp tại Đức, cả Keitel và Brauchitsch đều cảnh báo với Hitler rằng Đức ít có cơ may chiến thắng nếu Liên Xô đứng về phe kẻ thù của Đức. Tuy nhiên, cũng phải nói lại rằng chính nước Anh cũng chơi trò "bắt cá hai tay", vừa đàm phán với Liên Xô, vừa đàm phán để ký kết với Đức một Hiệp ước tương tự với ý muốn đẩy Đế chế thứ ba mở rộng sang phía Đông. Việc không ký kết được hiệp ước này nằm ngoài ý muốn của họ<ref name="militera.lib.ru"/>. Trước đó, [[Hiệp định Munich 1938]] đã thực sự khuyến khích Hitler thôn tinh Tiệp Khắc.<ref>Michael Freuner. Lịch sử nước Đức. Guthlaut. Bon. 1960. trang 626.</ref> Việc Pháp hủy bỏ Hiệp ước tương trợ với Liên Xô để ký Hiệp ước Munich cũng đã trở thành một hành động làm cho người Nga không tin tưởng ở họ.<ref name="Henry Payner 1957"/>