Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hawker Tempest”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Phát triển: clean up, replaced: → (2) using AWB
n sửa chính tả 3, replaced: Châu Âu → châu Âu using AWB
Dòng 52:
Những chiếc Tempest đời đầu chịu nhiều sự cố về động cơ chủ yếu do lượng xăng 150 octane không đủ đáp ứng. Cũng có những vấn đề về hệ thống nạp khí, hệ thống bôi trơn, và phần hút gió của bộ chế hòa khí (một tia lửa đánh ngược đơn giản có thể gây ra sự nổ).
 
Chiếc Tempest cũng được bố trí để hỗ trợ các đạo quân [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] tiến công vượt qua phía bắc Châuchâu Âu và tiếp chiến máy bay tiêm kích Đức mỗi khi bắt gặp. Lực lượng Tempest là một phần của Phi đoàn 122 đặt căn cứ tại sân bay Volkel gần [[Uden]], [[Hà Lan]] và bao gồm Phi đội 486 [[Không quân Hoàng gia New Zealand]] (đơn vị New Zealand duy nhất trang bị Tempest), các phi đội 80, 56 và 274 Không quân Hoàng gia Anh. Vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], tháng đầu tiên tham gia chiến dịch, 52 máy bay Đức bị tiêu diệt cùng 89 đoàn tàu hỏa, với thiệt hại 20 chiếc Tempest. Tiếp theo sau cuộc tấn công bất ngờ của [[Không quân Đức]] vào ngày [[1 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]] ([[Chiến dịch Bodenplatte]]), Phi đoàn 122 phải chịu đựng gánh nặng các phi vụ chiến đấu của [[Không lực 2 Chiến thuật Không quân Hoàng gia Anh]], dưới áp lực chiến đấu căng thẳng, mất 47 phi công trong tháng đó.
 
Chiếc Tempest cũng ghi được những chiến thắng đối với các [[máy bay phản lực]] Đức mới, bao gồm [[Messerschmitt Me 262]]. Hubert Lange, một phi công Me 262, nói: "Đối thủ nguy hiểm nhất của chiếc Messerschmitt Me 262 chính là loại máy bay Anh Hawker Tempest, rất nhanh ở cao độ thấp, rất cơ động và trang bị hỏa lực mạnh". Một số bị tiêu diệt bởi một chiến thuật được gọi là "Rat Code". Những chiếc Tempest được báo động cất cánh ngay mỗi khi có một chiếc Me 262 xuất hiện trên không. Chúng không đánh chặn chiếc máy bay phản lực, nhưng thay vào đó sẽ bay đến căn cứ của Me 262, sân bay Rheine-Hopsten.<ref>Gần thị trấn Hopsten hơn là thành phố Rheine, và hiện vẫn đang được Không quân Đức sử dụng.</ref> Mục đích là tấn công những chiếc máy bay phản lực khi nó tiếp cận hạ cánh, lúc mà chúng trở nên mong manh nhất: bay chậm, bật cánh tà và không thể tăng tốc nhanh chóng. Người Đức phản ứng bằng cách bố trí một "đường băng pháo phòng không" với hơn 150 khẩu pháo 20&nbsp;mm bốn nòng tại Rheine-Hopsten để bảo vệ việc hạ cánh. Sau khi bảy chiếc Tempest bị mất do pháo phòng không tại Rheine-Hopsten trong vòng một tuần, chiến thuật "Rat Code" được chấm dứt.
Dòng 127:
* This article is based on "The Hawker Typhoon, Tempest, & Sea Fury", version 1.1, by [[Greg Goebel]]. The original version (placed in the public domain) can be truy cập at: http://www.vectorsite.net/avcfury.html.
* Hubert Lange quote from http://www.hawkertempest.se/
 
* Mason, Francis K. ''The Hawker Typhoon and Tempest''. Bourne End, Buckinghamshire, UK: Aston Publications, 1988. ISBN 0-946627-19-3.
* Rawlings, John D. R. ''Fighter Squadrons of the RAF and their Aircraft''. Somerton, UK: Crecy Books, 1993. ISBN 0-947554-24-6.