Khác biệt giữa bản sửa đổi của “GRUB”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: ( → ( using AWB
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:10.7636156
Dòng 20:
 
=== <span id="MAP-FILE" contenteditable="false"></span>Khởi động ===
Khi một máy tính được bật, [[BIOS]] của máy tính sẽ tìm thiết bị được cấu hình khởi động chính (thường là [[ổ cứng]]) tải và thực thi chương trình bootstrap đầu tiên từ [[Boot record|master boot record]] (MBR). MBR là những [[:en:Disk sector|sector]] đầu tiên của ổ cứng, với số 0 là offset của nó(các sector bắt đầu đếm từ 0). Trong một thời gian dài, kích thước của sector là 512&nbsp;[[byte]], nhưng từ năm 2009 có nhiều ổ cứng có kích thước một sector là 4096&nbsp;byte, được gọi là ổ cứng [[:en:Advanced Format|Advanced Format]]. Tính đến tháng 10/2013, những ổ cứng như thế vẫn được truy cập những sector 512-byte, bằng cách sử dung mô phỏng 512e.<ref>{{Chú thích web|last=Smith|first=Ryan|title=Western Digital’s Advanced Format: The 4K Sector Transition Begins|publisher=[[AnandTech]]|date=Decemberngày 18, tháng 12 năm 2009|url=http://www.anandtech.com/show/2888|accessdate =2013- ngày 10- tháng 10 năm 2013}}</ref>
 
[[Boot record]] MBR [[legacy]] hỗ trợ tối đa 4 phân vùng primary và chiếm 64&nbsp;byte. Cùng với tùy chọn chữ ký đĩa (4 byte) và nhãn đĩa (6 byte), chuỗi dữ liệu này chiếm từ 434 đến 446&nbsp;byte [[mã máy]] của boot loader. Mặc dù một kích thước nhỏ có thể chứa đủ một boot loader đơn giản,<ref>{{Chú thích web|url=http://mbldr.sourceforge.net/|title=mbldr (Master Boot LoaDeR)|year=2009|accessdate =2013- ngày 10- tháng 10 năm 2013 |publisher=sourceforge.net}}</ref> nó không đủ lớn để chứa một boot loader hỗ trợ một [[hệ thống tập tin]] lớn và phức tạp, menu điều khiển các lựa chọn khởi động hệ thống là ví dụ. Boot loader với footprints lớn hơn do đó được chia thành nhiều phần, nơi những phần nhỏ nhất được tích hợp bên trong MBR, trong khi những phần lớn hơn chứa trong các khu vực khác (ví dụ,trong một sector trống ở giữa MBR phân vùng đầu tiên) và được gọi đến bởi mã MBR của boot loader.
 
Ảnh [[nhân hệ điều hành]] trong phần lớn các trường hợp các [[tập tin]] nằm trên hệ thống tập tin thích hợp, nhưng các khái niệm về một hệ thống tập tin là không biết đến [[BIOS]]. Vì vậy,trong các hệ thống dựa trên BIOS,nhiệm vụ của boot loader là để truy cập vào nội dung của các tập tin, vì vậy nó có thể đọc từ đĩa cứng, nạp vào bộ nhớ [[RAM]] và thực hiện.
 
Một trong những phương pháp tiếp cận có thể cho boot loader là tải trực tiếp các ảnh của hạt nhân từ các sector ổ cứng đang sử dụng bởi hình ảnh thực tế hạt nhân, mà không có sự hiểu biết cơ bản hệ thống tập tin.  <span>Thông thường, cấp bổ sung gián tiếp là cần thiết, ở dạng bản đồ hoặc các bản đồ tập tin </span>&ndash;&nbsp;các file phụ trợ có chứa một danh sách các&nbsp;sector vật lý đang sử dụng bởi ảnh hạt nhân, cung cấp thông tin cho boot loader về nơi có thể tìm thấy những sector cơ sở của nhân hệ thống. Các bản đồ này cần được cập nhật mỗi lần nhân hệ thống bị thay đổi, ví dụ như nâng cấp hạt nhân hệ thống giải phân mảnh hệ thống file. Cũng như vậy, trong các trường hợp bản đồ thay đổi trên ổ đĩa vật lý, vị trí của chúng cũng cần được cập nhật vào mã MBR của boot loader, vì vậy các cơ chế khu vực gián tiếp tiếp tục làm việc. Điều này không phức tạp, nhưng nó yêu cầu phải sửa đổi bằng tay trong trường hợp bị sai trong ki cập nhật hệ thống.<ref name="boot-admin">{{Chú thích web|url=http://www-uxsup.csx.cam.ac.uk/pub/doc/suse/suse9.0/adminguide-9.0/node8.html|title=Booting and Boot Managers|accessdate =2013- ngày 10- tháng 10 năm 2013 |publisher=SuSE}}</ref>
 
Một cách khác là tạo một boot loader nhận biết được hệ thống file bên dưới, Hạt nhân như vậy được cấu hình và truy cập thông qua đường dẫn thực tế. Điều này yêu cầu boot loader cần chứa một trình điều khiển hệ thống file cho mỗi hệ thống file mà nó hỗ trợ, so they can be understood and accessed by the boot loader itself. This approach eliminates the need for hardcoded locations of hard disk sectors and existence of map files, and does not require MBR updates after the kernel images are added or moved around. Configuration of a boot loader is stored in a regular file, which is also accessed in a file system-aware way to obtain boot configurations before the actual booting of any kernel images. As a result, the possibility for things to go wrong during various system updates is significantly reduced. As a downside, such boot loaders have increased internal complexity and even bigger footprints.<ref name="boot-admin"/>
Dòng 48:
 
== Chú thích ==
{{Reflisttham khảo|30em}}