Khác biệt giữa bản sửa đổi của “R-39 Rif”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: uơng → ương using AWB
n →‎top: chính tả, replaced: thâp → thập
 
Dòng 30:
Công việc phát triển bắt đầu tại NII Mashinostroyeniya vào năm [[1971]] và thiết kế được phê duyệt chính thức vào năm [[1973]]. Các cuộc thử nghiệm bay ban đầu diễn ra vào năm [[1979]] đã gặp một số vấn đề trong các động cơ đẩy dùng nhiên liệu rắn, hơn một nửa số cuộc thử nghiệm bay đầu tiên đã thất bại. Các thử nghiệm sau đó diễn ra trên [[tàu ngầm Đề án 941 Akula|tàu ngầm lớp Typhoon]] sửa đổi đã thành công và tên lửa được biên chế vào tháng 5 năm 1983, với 20 tên lửa cho mỗi tàu ngầm lớp Typhoon. Vào thời điểm cao nhất, đã có 120 tên lửa được triển khai với tổng cộng 1200 đầu đạn.
 
Theo các điều khoản của các hiệp ước [[Start I]] và [[START II|Start II]], từ năm 1996 một số lượng tên lửa R-39 đã bị tiêu hủy. Đến cuối thâpthập niên 1990, các tàu ngầm lớp Typhoon và các tên lửa R-39 trang bị dần dần rút khỏi trang bị. Tất cả tên lửa đã ngừng hoạt động vào năm [[2004]] và tất cả tàu ngầm lớp Typhoon cũng được nghỉ hưu, ngoại trừ một chiếc được dùng để làm bệ thử cho thế hệ tên lửa tiếp theo là [[RSM-56 Bulava]].
 
Một thiết kế tiếp sau R-39 là [[R-39M]] Grom ({{lang-ru|Гром}}, Thunder)/RSM-52V/SS-N-28 cho hệ thống phóng D-19UTTKh, sau một loại các thử nghiệm thất bại đã bị hủy bỏ.