Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Binh chủng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: sửa chính tả 3, replaced: Tham Khảo → Tham khảo using AWB
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 18:
* Thánh tổ: [[Phù Đổng Thiên Vương]].
 
'''Binh chủng Thiết giáp Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hòa''' (1955-1975) ([[tiếng Anh]]: ''Vietnamese Armored Cavalry Corp'', '''VNACC''') - còn gọi là '''Thiết giápTThiết Kỵ binh,''' '''(Thiết Kỵ)''' trực thuộc [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Là một Lực lượng đột kích tác chiến và cơ động trên các chiến trường với hoả lực mạnh. Thường xuyên phối hợp với các đơn vị[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Bộ binhBinh]]<nowiki/>n h[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến]] để giải quyết nhanh chóng trận chiến ''(bộ binh tùng thiết)''. Luôn luôn là một trong các thành phần tham dự những cuộc hành quân có quy mô lớn ''(trong đó bao gồm cả thành phần hải, lục, không quân và pháo binh).'' Trong quá trình hoạt động, binh chủng Thiết kỵKỵ đã được mệnh danh là ""Vua chiến trường".
==Lược sử hình thành==
Năm 1950, Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội Quốc qia. Đã được Quân đội Liên hiệp Pháp hỗ trợ để thành lập một đơn vị Thám thính xa. Khi hiệp định Genève được ký kết chia đôi đất nước vào ngày 20 tháng 7 năm 1954. Binh chủng Thiết giáp gồm 1 Lữ đoàn và 4 Thiết đoàn biệt lập. Năm 1955 nền Đệ nhất Cộng hòa hình thành thì Bộ chỉ huy Thiết giáp mới được chính thức thành lập.
Dòng 24:
Bộ chỉ huy Thiết giáp binh được thành lập vào ngày 1/4/1955 do Trung tá [[Dương Ngọc Lắm]] làm Chỉ huy trưởng đầu tiên.
 
Những chiến xa đầu tiên của binh chủng đều thuộc loại M.-24 Chaffees hạng nhẹ và loại M.-8 nửa bánh nửa xích ''(đều do Quân đội Pháp để lại)''. Đến năm 1956, Thiết giápGiáp binhKỵ Binh được tổ chức tiêu chuẩn hơn gồm những Trung đoàn Kỵ binhBinh, mỗi Trung đoàn có 2 Chi đoàn được trang bị chiến xa M.-3, M.-8, và M.-24.
 
Thời gian từ năm 1957-1962, Thiết giápKỵ chỉ giữ một vai trò khiêm nhường trên chiến trường miền Nam, vì địa hình nhiều rừng rậm và sông rạch lầy lội không thích hợp với di chuyển của chiến xa. Tuy nhiên với nhu cầu của chiến trường, những thiết vận xa M.-113 ''(còn gọi là xe tăng lội nước)'' được đem ra áp dụng và rất hữu hiệu với các mặt trận ở đồng bằng và đã thành công trong các cuộc hành quân ở vùng 4 chiến thuật. Sau đó các thiết vận xa M.-113 được trang bị thêm lá chắn và hoả lực mạnh hơn để trở thành loại chiến xa đa dụng của binh chủng Thiết giápGiáp ''(xin phân biệt chiến xa hay xe tăng có nhiệm vụ chính là dùng hoả lực tiêu diệt địch quân, còn Thiết quân vận có mục đích nguyên thuỷ là dùng để chở quân đổ vào mục tiêu).
 
Năm 1964, các chiến xa M.-24 cũ kỹ được thay thế bằng loại M.41 A3-41A3 ''(Walker Bulldog)'' tối tân hơn với hoả lực chính: đại bác 76ly76mm và đại liên 50 ''(đạn cỡ 12ly7, sau thay bằng đại liên M.-60 nhẹ và tác xạ nhanh hơn)'' ''(Loại này tuy bị coi là nhỏ bé chật chội đối với người tây phương cồng kềnh, nhưng đối với người Việt Nam nhỏ tác thì lại rất vừa vặn và hữu hiệu).'' Chiến xa M.-41 có 5 chi đoàn chẳng bao lâu đã trở thành xương sống và là niềm tự hào của binh chủng thiếtThiết Giáp Kỵ giápBinh. Cũng trong năm này, Bộ chỉ huy Thiết giápKỵ được lệnh giải tán vào giữa tháng 11. Sau đó 5 tháng vào ngày 15/4/1965 được tái lập và đặt Bộ chỉ huy tại trại Phù Đổng, Hạnh Thông Tây, Gò vấp, Gia Định.
 
Vào đầu thập niên 1970, khi phía đối phương dùng các loại chiến xa [[T-54]] và [[PT-76]] (năm 1968, PT-76 xuất hiện tại Làng Vây và Khe Sanh) để yểm trợ cho bộ binh. Binh chủng Thiết giápGiáp Kỵ Binh Việt Nam Cộng hòaHòa được Hoa Kỳ canh tân qua chương trình [[Việt Nam hoá chiến tranh]] và được trang bị loại chiến xa tối tân hạng nặng [[M48 Patton]] (trang bị hoả lực đại bác 90ly90mm và có gắn máy ngắm hồng ngoại Xenon) để tương ứng đối đầu với chiến xa T-54 được trang bị đại bác 100mm của đối phương. Trong những cuộc hành quân lớn và quy mô như [[vượt biên qua Campuchia]] năm 1970, [[Hạ Lào]] năm 1971 và trận chiến [[Mùa hè đỏ lửa]] năm 1972, các chiến xa của binh chủng ThiếtKỵ giápBinh Việt Nam Cộng hòa đã gây cho đối phương nhiều tổn thất đáng kể.
 
Tính đến năm 1975, lực lượng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòaHòa gồm có 1 Bộ Tư lệnh tại Trung ương và 4 Bộ tư lệnh Lữ đoàn tại 4 Quân khu, trong đó gồm có: 3 Thiết đoàn chiến xa M.-48, 14 Thiết đoàn thiết kỵ M.-113 và 6 Thiết đoàn chiến xa M.-41 được phối trí đều và thích ứng theo địa hình cho 4 vùng chiến thuật: Vùng 1, 2 và 4, mỗi vùng 5 Thiết đoàn, Vùng 3 có 6 Thiết đoàn. Ngoài ra phối trí cho các Tiểu khu, mỗi Tiểu khu có 1 chi đội thám thính xa loạiCadillac Gage Commando CarVehicle LAV.V-100 ''(di chuyển bằng bánh hơi, rất cơ động và nhanh lẹ)''. Một Chi đoàn gồm đủ các loại: M.-48, M.-41, M.-113 và V.-100 để cho khoá sinh tập huấn tại Trường huấn luyện Thiết giáp. Số còn lại thuộc dụng Bộ Tư lệnh Thiết giáp Trung ương. Tổng số là 21 Thiết đoàn.
 
==Bảng phối trí các Lữ đoàn==