Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tùy Văn Đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi về phiên bản 22331320 bởi Alphama (thảo luận): Lùi về bản ổn định. (TW)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 29:
| nơi an táng = Thái lăng
}}
'''Tùy Văn Đế''' (隋文帝; [[541]]-[[604]]) tên thật là '''Dương Kiên''' (楊堅), tên thường gọi là '''Na La Diên''' (那羅延), [[Tây Ngụy]] [[Tây Ngụy Cung Đế|Cung Đế]] ban cho họ '''Phổ Lục Như''' (普六茹), là [[Hoàng đế]] sáng lập triều đại [[nhà Tùy]] trong [[lịch sử Trung Quốc]], ở ngôi từ năm [[581]] đến năm [[604]]. Tiểu sử của ông được ghi tại [[Tùy thư]] quyển 1-2 ''"Cao Tổ bản kỷ"'' và [[Bắc sử]] quyển 11 ''"Tùy bản kỷ, thượng"''. Tùy Văn Đế được các sử gia đánh giá là một hoàng đế tài giỏi, đã đem lại thái bình và thịnh vượng cho Trung Hoa sau hàng trăm năm chia cắt.
 
== TiểuThân sửthế ==
Ông tổ Dương Kiên là người [[Hoa Ẩm]], Hoằng Nông (nay là huyện [[Hoa Âm]], tỉnh [[Thiểm Tây]]). Tổ thứ 5 là Dương Nguyên Thọ<ref name=Tuythu>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%9A%8B%E6%9B%B8/%E5%8D%B701 Tùy thư, quyển 1: Cao Tổ thượng]</ref> thời [[Bắc Ngụy]], là quan [[Tư mã]] trấn Vũ Xuyên<ref name=Tuythu />, cùng với ông cố [[Vũ Văn Thái]], người sáng lập ra nhà [[Bắc Chu]], đều là quân nhân của trấn này.
 
Cha Dương Kiên là [[Dương Trung (Nam Bắc triều)|Dương Trung]]<ref name=Tuythu />, tướng của [[Vũ Văn Thái]], bộ thuộc Độc Cô Tín, vì có công lớn nên được phong làm một trong 12 đại tướng quân trong triều, được [[Tây Ngụy Cung Đế]] ban họ ''Phổ Lục Như Thị'', sau khi [[Bắc Chu]] dựng nước, phong là ''Tùy quốc công'', nhậm chức Trụ quốc Đại tướng quân, thụy là ''Hoàn Công''. Mẹ ông người họ Lã, sinh ra ông đêm ngày Quý Sửu tháng 6 âm lịch năm Đại Thống thứ 7<ref name=Tuythu /> thời Tây Ngụy Văn Đế (tức năm 541).
 
== TừngThay bướcChu nắmlập quyền lựcTùy ==
 
=== Thời trẻ ===
Mới 16 tuổi, Dương Kiên đã giữ chức ''Phiêu kị Đại tướng quân'', thêm Khai phủ<ref name=Tuythu />. Thời [[Bắc Chu Vũ Đế]] (Vũ Văn Ung), được nối tước ''Tùy quốc công''<ref name=Tuythu /> của cha. Trước sau dã nắm giữ các chức trọng yếu: ''Thượng trụ quốc'', ''Đại tư mã'', ''Đại hậu thừa'', ''Đại tiền nghi''...
 
=== Vươn lên nắm quyền ===
Tình hình chính sự nhà Bắc Chu bỗng nhiên có biến động, thay đổi rất nhanh khiến Dương Kiên có cơ hội nắm quyền bính. Nhân Chu Vũ Đế không may đột ngột lâm bệnh mất khi đang sung sức (578), Chu Tuyên Đế lên thay lại sa vào hưởng lạc, Dương Kiên bắt đầu nắm lấy quyền điều hành triều đình. Tuyên Đế truỵ lạc và lười nhác, mới 20 tuổi đã nhường ngôi cho con lên làm [[Thái thượng hoàng]], phó mặc việc triều đình cho Dương Kiên để hưởng thụ. [[Bắc Chu Tĩnh Đế]] 6 tuổi lên ngôi, Dương Kiên vì là ông ngoại nên được nắm quyền phụ chính, đôn đốc tất cả chính sự trong triều đình. Không bao lâu, thượng hoàng chết yểu khi mới 21 tuổi (581), Dương Kiên nắm toàn quyền, giả mạo nghi thức làm '''Tả Đại thừa tướng''', tước '''Tùy Vương''' các quan lại đều vâng theo.
 
Để mua chuộc lòng người, củng cố và phát triển địa vị bản thân, Dương Kiên đã cải cách các luật lệ quá hà khắc của thời [[Bắc Chu Tuyên Đế]], pháp lệnh rõ ràng, rất tiết kiệm, nên rất được lòng các quan trong triều và nhân dân. Đồng thời cũng tiêu diệt các lực lượng đối kháng như [[Uất Trì Huýnh]], diệt các chư hầu hoàng tộc [[Bắc Chu]],. cuốiCuối cùng vào [[tháng hai|tháng 2]] năm [[581]] chính thức diễn ra màn kịch nhường ngôi, buộc [[Bắc Chu Tĩnh Đế|Tĩnh Đế]] họ Vũ Văn thoái vị, Dương Kiên lên ngôi lập ra [[nhà Tùy]], đặt niên hiệu là Khai Hoàng.
 
== Hoàng đế Đại Tùy ==
Năm Khai Hoàng thứ 8 ([[588]]) phong cho con trai là Tấn vương [[Tùy Dạng Đế|Dương Quảng]] làm Thống soái, đem theo 50 vạn đại quân tiến xuống phía nam, chỉ trong thời gian 4 tháng (đầu năm 589) đã tiêu diệt [[nhà Trần (Trung Quốc)|nhà Nam Trần]] thối nát, bắt Trần Hậu Chủ [[Trần Thúc Bảo]], lại một lần nữa thực hiện được việc thống nhất toàn cõi đất nước chia cắt kể từ năm 304 (thời [[Ngũ Hồ thập lục quốc|Ngũ Hồ Thập lục quốc]]).
 
=== Thống nhất Trung Hoa ===
Năm Khai Hoàng thứ 7 (587), Văn Đế tiêu diệt [[Hậu Lương (Nam triều)|Hậu Lương]] ở phía nam.
 
Năm Khai Hoàng thứ 8 ([[588]]), vua phong cho con trai thứ là Tấn vương [[Tùy Dạng Đế|Dương Quảng]] làm Thống soái, đem theo 50 vạn đại quân tiến xuống phía nam, chỉ trong thời gian 4 tháng (đầu năm 589) đã tiêu diệt [[nhà Trần (Trung Quốc)|nhà Nam Trần]] thối nát, bắt Trần Hậu Chủ [[Trần Thúc Bảo]], lại một lần nữa thực hiện được việc thống nhất toàn cõi đất nước chia cắt kể từ năm 304 (thời [[Ngũ Hồ thập lục quốc|Ngũ Hồ Thập lục quốc]]).
 
== Cai trị ==
Sau khi sáng lập [[nhà Tùy]], Dương Kiên áp dụng một loạt biện pháp tăng cường quyền hạn [[phong kiến]] trung ương.
 
Hàng 52 ⟶ 59:
 
=== Hành chính ===
Tổng kết những kinh nghiệm thống trị từ thời [[nhà Tần|Tần]]-[[nhà Hán|Hán]] trở lại, Tùy Văn Đế bãi bỏ cơ cấu [[Tam công|Tam Công]] Cửu Khanh từ thời Hán, sáng lập ra cơ cấu trung ương gồm ''tam tỉnh'', ''lục bộ'' (''tỉnh'' ở đây là tên cơ quan trung ương của triều đình, không phải là [[tỉnh]] - một đơn vị hành chính). Trưởng quan tam tỉnh là ''Thượng thư'', ''Môn hạ'', ''Nội sử''. Ở dưới có lục bộ ''Lại'', ''DânHộ'', ''Lễ'', ''Binh'', ''Hình'', ''Công''; phân chia quản lý từng mặt các công việc, đảm bảo chắc chắn quyền lực thống trị của hoàng đế, đề phòng một cách hữu hiệu việc phân chia cát cứ của thân nhân dòng họ của các đại thần và các thế lực địa phương. Đối với cơ quan hành chính địa phương, ông mạnh dạn cho đơn giản hóa từ ba cấp châu, quận, huyện sửa lại còn hai cấp châu, huyện. Dưới huyện có ba tổ chức cơ sở là bảo, lư, tộc, tăng cường sự khống chế đối với dân chúng. Ông cũng bãi bỏ chế độ từ đời [[nhà Hán|Hán]] để lại là các quan châu, huyện tự ý mở thêm ban phòng giúp việc, tăng cường sự khống chế của trung ương tới các địa phương.
 
Về mặt tuyển cử, Tùy Văn Đế ngừng toàn bộ chế độ cửu phẩm trung chính từ thời [[Tào Ngụy]] do [[Trần Quần]] đề xướng (là chế độ tuyển chọn quan lại nhằm giữ đặc quyền của các thế tộc, chia những người tài giỏi ra làm 9 bậc, chủ yếu dựa vào gia thế); nhiều lần ban lệnh trưng cầu nhân tài, cuối cùng do [[Tùy Dạng Đế|Dạng Đế]] đã thiết lập khoa [[tiến sĩ]], chính thức hình thành chế độ khoa cử Nho giáo. Tuy nhà Tùy có những đóng góp tích cực cho mặt nhân sự nhưng nhìn chung chính trị hai thời Tùy - Đường vẫn là nền thống trị của giai cấp sĩ tộc, chỉ đến khi [[nhà Đường]] diệt vong hơn 300 năm sau thì giai cấp sĩ tộc mới chính thức rời khỏi vũ đài lịch sử và nhường chỗ cho giai cấp địa chủ thứ tộc.
 
=== Pháp chế ===
Tùy Văn Đế đã cho làmnới lỏng hình pháp, cắt giảm 1 số điều luật tàn bạo của Bắc Chu, ban hành [[Luật Khai Hoàng]], ngoài 81 điều về tội [[tử hình]], 154 điều về tội lưu (là hình phạt đày phạm nhân đi xa khỏi nơi cư trú, có phân biệt xa gần và thời hạn lưu đày), 500 điều về tội phạt tù, còn chia ra các chương ''Danh lệ'', ''Vệ cấm'', ''Chức chế'', ''Hộ hôn'', ''Kho bãi'', ''Xây dựng'', ''Trộm cướp'', ''Tranh chấp'', ''Giả mạo'', ''Tạp luật'', ''Truy nã'', ''Vượt ngục''... có ảnh hưởng rất lớn đến luật lệ phong kiến đời sau.
 
Về mặt tác phong [[chính trị]], ông rất siêng năng chính sự, nghiêm khắc trong việc quản lý quan lại. ''"mỗi buổi sáng đều thiết triều nghe ý kiến của các quan tận xế không mệt, việc ăn mặc, nơi ăn ở đều sử dụng thật tiết kiệm..."'' Ông còn thường xuyên cử người đi tuần tra khắp nơi, cách chức những quan lại tham nhũng không làm tròn chức phận. Vua từng cho người đi tuần tra 52 châu ở Hà Bắc, cách chức hơn 200 tham quan, sau đó lại cắt giảm khoảng 3/10 số quan địa phương.
 
=== Văn hóa ===
Tùy Văn Đế ra lệnh đặt ra lễ nhạc mới, yêu cầu các công thần ''"giảm bớt việc hội hè văn nghệ, con cái trong nhà mỗi người phải học một môn."'' Ông cho người đi khắp nơi sưu tầm sách và quy định ''"gặp một cuốn sách, thưởng một xấp lụa, chép lại xong xuôi trả lại bản gốc cho chủ sách."'' ([[Tùy thư]], ''Kinh tịch chí''-quyển 1). Cho đến cuối đời thống trị, tàng thư Quốc gia có đến 37 vạn quyển sách, cực thịnh một thời.
 
Văn Đế tôn sùng đạo Phật. Dưới thời ông, Phật giáo bị Chu Vũ Đế diệt trừ lại thịnh vượng trở lại. Vua cho những hòa thượng trước kia được quay lại tu hành, còn thu thập tiền theo đầu người trên cả nước để xây chùa chiền và trùng tu tượng Phật. Văn Đế cho phép các chùa được miễn thuế và cả các sản nghiệp ruộng đất khác dưới danh nghĩa của chùa. Sự phát triển của Phật giáo thời Tùy có liên quan mật thiết đến nỗ lực đề xướng của Văn Đế.
 
=== Phát triển kinh tế ===
Tùy Văn Đế đã giảm nhẹ thuế khóa lao dịch, đưa tuổi thành đinh từ 18 lên 21 tuổi, thời gian phục dịch của đinh nam thì mỗi năm một tháng sửa thành 20 ngày, nộp thuế từ một xấp lụa xuống còn nửa xấp. 50 tuổi trở lên được miễn chế độ lao công phục dịch. Ông ban bố ''lệnh quân điền'', chia cho nam thanh niên, nam trung niên 80 mẫu ''lộ điền'' (ruộng đất không có nhà cửa, cây cối trên đó), 20 mẫu ruộng đất trồng trọt lâu dài. Phụ nữ được 2040 mẫu lộ điền. Các quan chức theo phẩm cấp quan lại dựa theo cấp bậc được cấp 1-5 khoảnh (khoảnh = 100 mẫu) ruộng chức phận, phủ quan cấp ruộng công giải là ruộng cấp cho cơ quan nhà nước.
 
Văn Đế cho kiểm tra hộ tịch nghiêm ngặt, đồng thời cũng tiến hành cải cách chế độ hộ tịch, ra lệnh sửa lại hộ tịch, cứ 5 năm nhà là 1 bảo, 5 bảo là 1 lư, 4 lư là 1 tộc. Đầu năm Khai Hoàng cả nước có hơn 360 vạn hộ, diệt Trần xong tăng thêm 50 vạn hộ, sau đó tăng đến con số 870 vạn hộ. Nhờ dân số tăng nhanh nên nguồn thu nhập của nhà nước cũng tăng đáng kể.
 
Tùy Văn Đế cũng rất coi trọng công tác [[thủy lợi]]. Năm Khai Hoàng thứ 2 (591), đào kênh đưa nước từ sông Đỗ Dương về bình nguyên [[Tam Lộc]]. Năm thứ 4 lại dẫn nước [[sông Vị]] đi qua thành Đại Hùng ([[Trường An]]) đi về phía đông đến [[Đồng Quan]], đổ ra tận sông [[Hoàng Hà]]. Năm sau đó, đổi tên công trình thủy lợi đã được khai thông là ''Bào Pha'' thành ''Đỗ Pha'', ''Bá Thủy'' thành ''Tư Thủy''. Những công trình này đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển sản xuất và sự phồn vinh của [[kinh tế]].
 
Sử sách đã ghi lại rằng, thời kỳ Khai Hoàng ''"dân giàu nước mạnh, lúa gạo đầy kho"'', nhà nước đã cho xây dựng rất nhiều kho [[thực phẩm|lương thực]] tại [[Lạc Dương]] và một số nơi khác như kho ''Hàm Gia'', kho ''Lạc Khẩu'', kho ''Vĩnh Phong'', kho ''Thái Nguyên''... mỗi kho chứa lương thực từ mấy triệu thạch đến mấy chục triệu thạch. Xã hội giàu có phát triển, được gọi là ''Khai Hoàng thịnh thế''. Dương Kiên còn cho đúc tiền ngũ thù, nặng đúng 5 thù (thời xưa 1 [[lạng]] = 24 thù) để thống nhất [[tiền tệ]]. Đồng thời lại chế tạo đấu đong bằng [[đồng]], ban bố toàn quốc thống nhất [[tiêu chuẩn đo lường]].
 
Văn Đế chủ trương tiết kiệm, lệnh cho các tần phi trong cung không được ăn mặc xa hoa, bình thường mặc áo vải, không dùng đồ trang sức bằng vàng mà chỉ dùng đồ trang sức bằng đồng, sắt và sừng. Chủ trương tiết kiệm này vừa giảm bớt gánh nặng cho dân, vừa có lợi cho vua khi tiến hành cải cách.
 
=== Đối ngoại ===
Thời Nam Bắc triều, quân Đột Quyết hay quấy nhiễu biên giới Bắc Chu và [[Bắc Tề]]. Sau khi thành lập nhà Tùy, năm Khai Hoàng thứ 3 (583), Văn Đế cho quân đi đánh Đột Quyết, vận dụng chiến lược li gián và phân hóa để tách Đột Quyết thành 2 miền đông ây, hai bên giao chiến không ngừng, còn nhà Tùy thì tiêu trừ được một mối lo.
 
Năm Khai Hoàng thứ 18 (598), [[Cao Câu Ly]] tấn công một dải Liêu Đông ở đông bắc nhà Tùy. Văn Đế cho con thứ 5 là Hán vương Dương Lượng đem quân đi đánh theo 2 đường thủy bộ nhưng bị Cao Câu Ly đánh cho tan tác. Thủy quân trên biển thì vướng bão nên tổn thất nặng nề. Văn Đế sau đó buộc phải hủy bỏ chiến dịch còn Cao Câu Ly thì ngưng việc tấn công nhà Tùy.
 
Đầu thời Khai Hoàng, nhà Tùy ở phía bắc có Đột Quyết, tây có [[Thổ Phồn]], đông có Cao Câu Ly, nam có [[Lâm Ấp]] (Champa). Đến cuối thời Văn Đế, Đột Quyết bị chia thành 2 miền, Đông Đột Quyết trên danh nghĩa thần phục nhà Tùy. Champa bị đánh bại, tuy chưa bị chinh phục nhưng không còn là mối đe dọa cho nhà Tùy. Chỉ có Cao Câu Ly ngoài mặt thần phục nhưng mới thực sự là mối nguy hiểm và sau này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tùy.
 
== Cuối đời ==
Tùy Văn Đế ở ngôi 24 năm, có hai niên hiệu là Khai Hoàng (20 năm), Nhân Thọ (4 năm). Năm Nhân Thọ ông đã 61 tuổi, tuổi già ông lại bộc lộ nét xấu. Năm Nhân Thọ thứ nhất ([[601]]), ông nghe lời của [[Dương Tố]], hạ lệnh bãi bỏ Thái học và châu huyện học chỉ để lại một trường Quốc tử học, giữ lại 72 học sinh trường Quốc tử, làm cho nền giáo dục của toàn quốc bị suy giảm. Ông cũng rất tín ngưỡng [[phật giáo|đạo Phật]], [[đạo giáo|đạo Lão]], ra lệnh bất cứ ai ăn cắp tượng [[Phật]] hay tượng [[Nguyên thủy Thiên tôn]] đều bị xem như là tội đại nghịch.
 
Năm Khai Hoàng thứ 13 (593), Văn Đế cho xây cung Nhân Thọ, để Dương Tố giám sát. Để kịp tiến độ công việc, vua huy động mấy vạn nhân công làm việc ngày đêm, nhiều người bỏ mạng. Dương Tố cho đào hố chôn luôn dưới nền cung điện, lấy đá phẳng lát lại.
Những năm cuối đời, tính tình Văn Đế thay đổi thất thường, giết người một cách tùy ý. Có lần đến kho vũ khí tuần tra, thấy trong kho hơi dơ bẩn, ông ra lệnh bắt trưởng kho, hạ lệnh [[tử hình]]. Thêm vào đó, bị [[Tùy Dạng Đế|Dương Quảng]] nịnh bợ, phế Thái tử [[Dương Dũng]], lập Quảng thế ngôi. Cho nên [[tháng bảy|tháng 7]] [[âm lịch]] năm Nhân Thọ thứ 4 ([[604]]), trong lúc đang bị bệnh đã bị chính Dương Quảng ám hại chết, thọ 64 tuổi, [[miếu hiệu]] là '''Cao Tổ''', [[thụy hiệu]] '''Văn Hoàng đế'''. Cuối cùng Quảng kế ngôi vua, hay [[Tùy Dạng Đế]], người đã đánh mất giang sơn [[nhà Tùy]].
 
Những năm cuối đời, tính tình Văn Đế thay đổi thất thường, giết người một cách tùy ý. Có lần đến kho vũ khí tuần tra, thấy trong kho hơi dơ bẩn, ông ra lệnh bắt trưởng kho, hạ lệnh [[tử hình]]. Thái độ nghi kỵ và hình phạt nghiêm khắc khiến Văn Đế mất đi nhiều quan lại làm trợ thủ, sự sùng tín với đạo Phật thu hút kẻ tiểu nhân, còn việc xây dựng các công trình lớn mở đầu cho lối sống xa xỉ. Nền thịnh trị Khai Hoàng đến đây thì chấm dứt, nguy cơ tiềm ẩn của triều Tùy cũng bắt đầu hiện ra.
 
Những năm cuối đời, tính tình Văn Đế thay đổi thất thường, giết người một cách tùy ý. Có lần đến kho vũ khí tuần tra, thấy trong kho hơi dơ bẩn, ông ra lệnh bắt trưởng kho, hạ lệnh [[tử hình]]. Thêm vào đó, bị [[Tùy Dạng Đế|Dương Quảng]] nịnh bợ, phế Thái tử [[Dương Dũng]], lập Quảng thế ngôi. Cho nên [[tháng bảy|tháng 7]] [[âm lịch]] năm Nhân Thọ thứ 4 ([[604]]), trong lúc đang bị bệnh đã bị chính Dương Quảng ám hại chết, thọ 64 tuổi, [[miếu hiệu]] là '''Cao Tổ''', [[thụy hiệu]] '''Văn Hoàng đế'''. Cuối cùng Quảng kế ngôi vua, hay [[Tùy Dạng Đế]], người đã đánh mất giang sơn [[nhà Tùy]]. Về nguyên nhân cái chết, tài liệu hiện nay không ghi chép rõ ràng, nhưng đời sau thường cho rằng Văn Đế bị Dương Quảng ám hại.
 
== Công lao ==
Hàng 88 ⟶ 112:
 
=== Phát triển kinh tế - xã hội ===
Tùy Văn Đế đã áp dụng hàng loạt những biện pháp hữu hiệu, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển với tốc độ cao. Văn đế thực hành chế độ quân điền, đã nâng cao tinh thần tích cực sản xuất của nông dân. Ông thực hành giảm bớt bóc lột và kiểm tra hộ khẩu, càng có tác dụng to lớn đối với việc phát triển kinh tế và tăn cường quốc lực. Năm Trinh Quán thứ 11 [[nhà Đường]] (637), [[Mã Chu]] nói với [[Đường Thái Tông]]:
Năm Trinh Quán thứ 11 [[nhà Đường]] (637), [[Mã Chu]] nói với [[Đường Thái Tông]]:
:''Nhà Tùy làm để dành ở Lạc Khẩu, [[Lý Mật (Tùy)|Lý Mật]] đã nhân đó mà dùng; những kho tàng ở Tây Kinh đều được Nhà nước sử dụng, đến nay chưa hết.''