Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Overlord (1944)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: Quốc Xã → Quốc xã (5) using AWB
n clean up, replaced: → (6) using AWB
Dòng 18:
{{Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ hai)}}
{{Mặt trận phía Tây 1944–1945}}
Cuộc đổ bộ của quân đội khối [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng minh]] vào các bãi biển vùng [[Normandie]] ngày [[6 tháng 6]] [[1944]], còn gọi là '''Trận chiến vì nước Pháp'''<ref name="donallmiller"/>, là một trong những mốc lịch sử quan trọng của [[chiến tranh thế giới thứ hai|thế chiến thứ hai]]. Đây là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử<ref>{{cite video|people=Ian Holm|medium=Documentary|publisher=BBC|location=UK|time=49:45|quote=The fleet of ships now embarking on the 24 hour journey to France is the greatest armada the world has ever seen.}}</ref>, với hơn 150.000 quân lính của [[Hoa Kỳ]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]], [[Canada]] cùng với quân kháng chiến [[Pháp]], [[Tiệp Khắc]], [[Ba Lan]], [[Bỉ]], [[Hà Lan]], [[Na Uy]], theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam Anh Quốc kéo vào đất Pháp lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của quân [[Đức Quốc xã]]. Ngay từ ngày đầu tiên, họ đã phá hủy các cầu và cắt đường liên lạc của quân Đức, và gặt hái thành công vang dội<ref name="gerradr78"/>. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân lực Đồng Minh giành được lợi thế vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm ấy<ref name="gerradr78"/>, đẩy được quân Đức Quốc xã ra khỏi các căn cứ quân sự tại Normandie và trên đà thắng lợi đã tiến hành cuộc [[giải phóng Paris]] nói riêng<ref name="donallmiller">Donald L. Miller, ''Masters of the air: America's bomber boys who fought the air war against Nazi Germany'', trang 310</ref>, và cuộc tiến chiếm giải phóng châu Âu nói chung cũng như sự chấm dứt thắng lợi của cuộc chiến. Bất chấp sự kháng trả mãnh liệt của mình, quân Đức bị tổn thất lớn lao, lâm vào một thảm họa choáng váng.<ref name="badsley67"/><ref name="martingilbert"/> [[Thắng lợi quyết định]] này đã làm nên một bước ngoặt lớn cho cả cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, góp phần dẫn tới sự sụp đổ của Nhà nước phát xít Đức và chấm dứt chiến tranh.<ref name="debates576"/><ref name="murielrgillick1">Muriel R. Gillick, ''Once They Had a Country: Two Teenage Refugees in the Second World War'', trang 124</ref><ref>Thomas J. Cutler, ''The Battle of Leyte Gulf: 23-ngày 26 tháng 10 năm 1944'', trang XIV</ref> Để đạt được [[chiến thắng]] vang dội này, lực lượng Đồng Minh đã phải hứng chịu thiệt hại nặng nề,<ref name="martingilbert">Martin Gilbert, ''D-Day''</ref> và đại thắng cũng được xem là một trong những trận thắng vẻ vang và anh dũng nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.<ref name="debates576"/><ref>''Congressional Record: Proceedings and Debates of the 105th Congress, First Session Vol. 143 Part 5'', trang 6295</ref>
 
Thắng lợi này được xem là chiến thắng lớn nhất của [[Đại tướng]] [[Anh]] là [[Bernard Montgomery]].<ref name="badsley67"/> Như một ký ức đen tối cho họ, thảm họa Normandie này đã chôn vùi 2/3 các Sư đoàn Thiết giáp của Đức Quốc xã (Tập đoàn quân thứ bảy và phần lớn Tập đoàn quân xe tăng thứ hai của họ đã bị tiêu diệt, đem lại một thảm kịch bi đát và bất ngờ cho [[Adolf Hitler]] và chính quyền phát xít Đức<ref name="badsley67"/><ref name="gerradr78"/>),<ref name="johnkeeganxvii">John Keegan, ''Six armies in Normandy: from D-Day to the liberation of Paris'', trang XVII</ref> dù họ vẫn còn sức mạnh sau khi quân Đồng Minh đại thắng trận Normandie.<ref name="donallmiller"/> Chiến thắng điểm ngoặt của quân lực Đồng Minh tại Normandie được xem là thành quả của kế hoạch đồ sộ của các nhà lãnh đạo [[chính trị]], cùng với muôn triệu người khác, trong đó có cả những [[người lính]] Đồng Minh, và cũng được xem là thành tựu lớn nhất của khối Đồng Minh trong cuộc chiến.<ref name="martingilbert"/><ref>John Keegan, ''Six armies in Normandy: from D-Day to the liberation of Paris'', trang 368</ref> Và, thắng lợi ấy góp phần khiến cho quân đội Đức ở [[Tây Âu]] trở nên một đống tàn quân để mà phòng vệ miền Tây nước Đức sau đó.<ref name="johnkeeganxvii"/>
Dòng 56:
=== Nhiệm vụ của hải quân Đồng Minh ===
[[Tập tin:British Landing Craft on Beach at Dieppe.jpg|nhỏ|250px|Xe tăng của quân đội Anh Quốc tại bãi biển Dieppe]]
Để vận chuyển quân và hỏa lực lên các bãi biển Normandie đòi hỏi sự đóng góp cực kì quan trọng của hải quân Đồng minh. 8 nhóm chiến đấu đầu tiên có trang bị [[chiến xa]] và [[pháo|đại bác]] được chở trên 4000 con tàu và xà lan đổ bộ và ra đi từ các [[cảng Plymouth]] và [[Newhaven]] của Anh. 1 nửa số tàu này có khả năng tự động, số còn lại phải có trục kéo. Chiến dịch này có tên gọi là Neptune và có vai trò cực kì quan trọng trong chiến dịch Overlord. Điểm tập trung ngoài khơi được đặt tên là Picadilly Circus giống như tên 1 ngã tư lớn ở [[Luân Đôn|London]] và các tàu từ mọi cảng đều hội tụ về đây. Và từ 4 tuyến chính ấy, các xà lan sẽ tỏa ra 10 kênh và nhắm thẳng vào bờ. Một phần của hạm đội sẽ có nhiệm vụ cảnh giác sự tấn công của tàu chiến Đức. Bộ phận hỗ trợ trực tiếp được chia thành 2 nhóm: [[Lực lượng đặc nhiệm]] (Task Force) của đô đốc Kirk, [[hải quân Hoa Kỳ|hải quân Mỹ]] với 3 [[thiết giáp hạm]], 10 [[tàu tuần dương|tuần dương hạm]], 35 [[tàu khu trục|khu trục hạm]] và nhiều tàu chiến cỡ nhỏ khác có trang bị đại bác và [[tên lửa|hỏa tiễn]]. Lực lượng hỗ trợ tác chiến thứ 2 thuộc quyền chỉ huy của đô đốc hoàng gia Anh [[Sir Phillip Vian]] với 3 thiết giáp hạm, 13 tuần dương hạm và 44 khu trục hạm.
 
Hải quân Đồng Minh còn có 1 nhiệm vụ quan trọng nữa là tiếp tế quân lực lẫn [[thực phẩm|lương thực]], [[xăng dầu]], quân trang, quân dụng, [[vũ khí]] cho tất cả các đơn vị chiến đấu đặt chân lên đất Pháp. Nhiên liệu thì được chuyển riêng trong những ống dẫn khổng lồ dưới biển ngoài khơi [[đảo Wight]] và rẽ ra 2 nhánh hướng về [[Querqueville]] và [[Port-en-Bessin]] (Pháp). Ống dẫn được đặt tên là Pluto, huyết mạch quan trọng nhất cho sự thành công của chiến dịch Overlord.
Dòng 63:
Để đảm bảo làm chủ được bầu trời khu vực đổ bộ, 7500 phi cơ của tướng chỉ huy [[không quân Hoàng gia Anh]] [[Leigh Mallory]] đã được phái đến. Các [[sư đoàn]] 3 [[Anh]], sư đoàn 3 [[Canada]] và sư đoàn 50 Anh trong bình minh ngày 6/6 phải đổ bộ lên 3 bãi [[Sword]], [[Juno]] và [[Gold]] dưới quyền chỉ huy của tướng [[Dempsey]], tư lệnh [[Tập đoàn quân]] số 2 Anh quốc trong khi các sư đoàn 1 và sư đoàn 4 của Mỹ thì đổ bộ lên các bãi [[Omaha]], [[Utah]] thuộc quyền chỉ huy của tướng [[Bradley]], tư lệnh Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ. 4000 tấn [[bom]] đã được trút xuống các tuyến phòng thủ của quân Đức. Bộ chỉ huy ném bom chiến lược (Bomber Command) của không quân Mỹ, tạm ngưng đánh bom các thành phố lớn của Đức và chuyển sang chiến dịch Overlord. 3.500 pháo đài bay của Bomber Command sẽ rải thảm bom ngăn cản đường tiến lui và đường tiếp viện của quân [[Đức]].
 
Cùng ngày hôm đó, các sư đoàn nhảy dù của quân Đồng minh cũng đổ bộ lên Normandie. Nếu như lính nhảy dù Anh thành công trong việc chiếm các cây cầu trên [[sông Orne]] và [[vùng Troarn]] thì [[sư đoàn 101]] của Mỹ phải chịu tổn thất nặng nề khi đổ bộ lên đầm lầy bãi Utah. Sư đoàn không kị 802 của Mỹ cũng nguy khốn không kém. 822 [[vận tải cơ quân sự]] (18 [[binh chủng nhảy dù|lính dù]]/1 chiếc) để đưa được các sư đoàn không kị Mỹ Anh đến trận địa. Những phi cơ này bay ở vận tốc 200&nbsp;km/giờ và độ cao 320 [[mét]]. Mỗi lính dù phải mang 1 trọng lượng gấp đôi cơ thể. Mỗi máy bay chất đầy [[đạn pháo]] 75 li, [[đạn cối]] 60 li, [[đạn bazooka]]. 500 vận tải cơ này cất cánh từ nhiều sân bay khác nhau của miền nam nước Anh vào đêm 5 tháng 6 và bay ở đội hình tam giác 9 chiếc một, số phi cơ này dự định tiến hành thả dù từ 1 đến 2 giờ sáng ngày 6 tháng 6. Nhưng do mây mù ập đến bất chợt nên đội hình bay bị xáo trộn, nhiều phi cơ bay chệch hướng và thả dù rất thấp gây tử vong cho lính dù rất nhiều ở [[Cotentin]] và các vùng thung lũng ngập nước [[Douve]] và [[Merderet]]. Chỉ có 2 trong số 6 trung đoàn nhảy dù xuống vùng tương đối thuận lợi nên kế hoạch nhảy dù của tấn công bất ngờ quân Đức đã không được kết quả như mong muốn.
 
Nếu như việc nhảy dù không mấy thành công thì việc đổ bộ tại 4 trong 5 bãi tiến hành tương đối khá tốt. Quân Đức hoàn toàn bất ngờ về việc quân Đồng minh đổ bộ lúc nửa triều nên không thực hiện được chiến thuật tác xạ đã bàn giao trước đó. Quân Đức phải mất 1 thời gian để chỉnh lại góc tác xạ của [[đại liên]], cối, pháo tạo điều kiện cho quân Đồng minh tìm được chỗ ẩn náu để mở cuộc tiến công. Việc đánh bom chuẩn bị dọn đường cho quân đổ bộ với việc thả hơn 5000 tấn bom từ 1036 phóng pháo cơ Mỹ tuy có hiệu quả nhưng lại không dứt điểm được các công sự bằng bêtong của quân Đức. Ngược lại [[ca nông]] bắn đi từ các tàu chiến phe Đồng minh lại đạt hiệu quả rất cao. Các [[thiết giáp hạm]] Nelson, Ramillies, Roberts, Erebus liên tục nã đại pháo 406&nbsp;mm và 380&nbsp;mm chính xác vào phòng tuyến đối phương chẳng hạn như các khẩu pháo của Đức đặt tại Houlgate có khả năng bắn trả vào cuộc đổ bộ của quân Anh. Nhưng tại mũi Hoc, với những đại pháo với tầm bắn bao trùm cả cửa ngõ sông Douve, trong khu vực đổ bộ của quân Mỹ thì hoàn toàn không hề hấn gì sau những trận mưa bom và hải pháo. Tiểu đoàn 2 biệt động quân Mỹ được lệnh phải hạ các [[lô cốt]] và thiệt mất 1135 binh sĩ.
 
Hoạt động của ba sư đoàn dù, sư đoàn 6 không kị Anh, sư đoàn 82 và sư đoàn 101 không kị Mỹ - cũng đã phần nào tạo thuận lợi cho 4 sư đoàn bộ binh Mỹ tại các đụn cát giữa [[Vareville]] và [[Madeleine]], phía nam Cotentin. Các đơn vị đã có thể tiến dọc theo những lộ trình đã được vạch sẵn và giải toả mọi mìn bẫy. Các đoàn quân này ngay trong chiều ngày 6 tháng 6 1944 đã đến được khu vực [[làng Sainte-Mere-Eglise]] mà mới sáng hôm đó là điểm nhảy dù của sư đoàn không kị 82 của Mỹ. Trong lúc đó, quân Đức chuẩn bị cho 1 cuộc phản công do đó quân Mỹ đổ bộ lên bãi Omaha đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức. Những tràng đại liên và pháo của sư đoàn bộ binh 352 của Đức khiến quân Mỹ gặp rất nhiều tổn thất trước khi đến được [[Isigny]] ở phía Tây và liên lạc với quân Anh ở hướng Đông. Cơn tắm máu ở bãi Omaha không chỉ do sức kháng cự của quân Đức mà còn do sai lầm của quân Đồng Minh khi không sử dụng các chiến xa vô hiệu hóa các công sự phòng thủ trên bãi. Ngược lại, quân Anh và Canada lại sử dụng triệt để các chiến xa phá mìn trong khu vực [[bãi Gold]] và [[bãi Juno]]. Quân Canada nhanh chóng giải phóng [[Bayeux]] và mãi đến chiều tối Đức mới phản công lần nữa bằng việc đưa sư đoàn thiết xa [[Panzer 21]] ra trận. Đến chiều ngày 8 tháng 6 thì đầu cầu đổ bộ đã hình thành rõ ràng và vững chắc, quân Đồng minh đã bắt liên lạc được với nhau giữa năm bãi đổ bộ, chiếm đóng 56&nbsp;km bờ biển với chiều sâu từ 8 đến 16&nbsp;km. Chiến dịch Overlord xem như thành công và quân Đức quá bất ngờ nên trở tay không kịp. Gần 1 ngày sau, quân Đức mới tổ chức phòng ngự và chuyển quân tiếp viện đến gần bờ biển với hi vọng đánh bật quân Đồng Minh ra khỏi bờ biển. Nhưng quân Đức phải xung trận trong điều kiện hoàn toàn bất lợi: không quân Đồng minh đã kiểm soát toàn bộ bầu trời, quân Đức phải sử dụng địa hình Normandie để tổ chức phòng ngự. Trận chiến Normandie phải tiếp tục kéo dài vì trong suốt tháng 6 quân Đồng minh chỉ lo củng cố đầu cầu đổ bộ hơn là tiếp tục tấn công.
 
Với bàn đạp vững chắc tại Normandie, chiến dịch của quân Đồng minh Mỹ - Pháp - Canada đã đại thắng. Phe Đồng minh hứng chịu ít tổn thất hơn dự đoán. Trong khi sức kháng cự của quân Đức cũng yếu ớt hơn dự đoán, quân Đồng minh đã tỏ ra nhanh chân hơn quân Đức trong việc bố trận.<ref name="gerradr78">Ken Ford, Howard Gerrard, ''Falaise 1944: death of an army'', các trang 7-8.</ref> Dẫu sao đi chăng nữa, tổn hại của quân Đồng Minh trong ngày đầu rất nặng nề, trong đó có 1074 binh sĩ Canada bị thương. Nhưng, thắng lợi quyết định của họ đã góp phần đánh đổ hoàn toàn Nhà nước phát xít Đức.<ref name="debates576"/>
Dòng 83:
 
=== Chiến dịch Rắn đuôi chuông ===
Chiến dịch Rắn đuôi chuông là chiến dịch quyết định. Ngày [[28 tháng 7]], tướng [[Patton]] xua quân chiếm được [[Coutances]] rồi lần lượt giải phóng [[Granville]], [[Avranches]]. Từ [[Pontaubault]], Patton kiểm soát được [[Mont-saint-Michel]], cửa ngõ của [[Bretagne]]. Sau khi chọc thủng thành công phòng tuyến quân Đức, Patton xua quân đánh sâu xuống miền Nam về hướng [[thành phố Mans]] và [[sông Loire]]. Gần 1 tháng sau, ngày 21 tháng 8, quân Đồng minh chiếm [[Falaise, Calvados|Falaise]], loại được 40 ngàn binh sĩ Đức ra khỏi vòng chiến, thế nhưng 5 vạn quân Đức đã trốn thoát được.<ref name="donallmiller"/> Dù sao đi chăng nữa, trận Falaise cũng là một thất bại nặng nề và choáng váng của người Đức<ref name="badsley67"/>. Thắng lợi của Chiến dịch Normandie đã chứng tỏ tiềm lực của Quân đội Hoa Kỳ.<ref name="jeremy1454"/> Mặc dầu thảm bại này vẫn chưa phải là thất bại to lớn nhất của quân lực Đức trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai,<ref name="johnkeeganxvii"/> đây vẫn được xem là thắng lợi lớn nhất của quân Đồng Minh khi ấy<ref name="godwin75"/> và [[Adolf Hitler|Hitler]] xem như mất quyền kiểm soát lãnh thổ Pháp vì không lâu sau đó quân Đồng minh tiếp tục thành công trong 1 cuộc đổ bộ khác tại [[Provence]].
 
== Hậu quả ==