Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Luật chống ly khai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả, replaced: Nhân Dân → Nhân dân (2) using AWB
Dòng 5:
[[Đài Loan]] được chính thức sáp nhập vào [[nhà Thanh]] năm 1683. Trong [[hiệp ước Shimonoseki]] năm 1895, Trung Quốc đã nhượng lại vĩnh viễn Đài Loan cho Nhật Bản. Sau khi [[chiến tranh thế giới thứ hai]] kết thúc, Nhật Bản đã bỏ lại Đài Loan cho chính quyền [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc Dân Đảng]] của [[Trung Hoa Dân Quốc]] năm 1945. Năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc tuyên bố thành lập, Đài Loan và đảo phụ cận tiếp tục do Trung Hoa Dân Quốc quản lý. Theo quan điểm chính thức của mình, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc. CHNDTQ tự coi mình là chính thể hợp pháp duy nhất của Trung Quốc và do đó cũng có chủ quyền đối với Đài Loan. Theo lập luận của CHNDTD, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã không còn đại diện cho chủ quyền của Trung Quốc khi nó đánh mất quyền kiểm soát Trung Quốc Đại lục vào giữa những năm 1949-1950. Tuy vậy, trên thực tế, Đài Loan vẫn thuộc quyền quản lý của Trung Hoa Dân Quốc (THDQ).
 
Quan điểm chính thức của THDQ là nó đã không chấm dứt sự tồn tại vào nằm 1949 và vẫn tiếp tục đóng vai trò một thực thể chính trị có chủ quyền ở Đài Loan cho đến bây giờ, khiến cho mối quan hệ của THDQ và CHNDTQ giống như hai quốc gia bị chia cắt (như [[Triều Tiên]] và [[Hàn Quốc]]). Lập trường của CHNDTQ được công nhận bởi hầu hết các nước khác bằng việc thông qua "[[chính sách một Trung Quốc]]" tuy vậy, một số quốc giahọ muốn tiếp cận một cách mơ hồ với vấn đề này bằng cách giao thiệp với cả 2 phía THDQ và CHNDTQ.
 
Sau khi luật chống ly khai của CHNDTQ được công bố, Đài Loan đã có các phản đối mạnh mẽ.
 
==Nội dung==