Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương Đạo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: tên tựtên chữ using AWB
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: tên chữtên tự using AWB
Dòng 1:
'''Vương Đạo''' ([[chữ Hán]]: 王導, [[276]] - [[339]]), [[Tên chữ (người)|tên chữtự]] là '''Mậu Hoằng''' (茂弘), nguyên quán ở huyện Lâm Nghi, tỉnh [[Sơn Đông]], là đại thần, tể tướng dưới thời [[Đông Tấn]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Xuất thân trong một gia đình thế tộc, Vương Đạo từ nhỏ đã tỏ ra là người có học thức và tài năng. Vào lúc [[Loạn bát vương|tám vương làm loạn]], Vương Đạo kết thân với tông thất nhà Tấn là Lang Nha vương [[Tư Mã Duệ]] ([[276]] - [[323]]) và đi theo phò tá ông ta. Năm [[307]], Vương Đạo và [[Tư Mã Duệ]] vì muốn tránh thế cục hỗn tạp ở [[Trung Nguyên]] nên về miền nam, xây dựng lực lượng ở vùng Kiến Nghiệp<ref>Nay thuộc thành phố Nam Kinh, tỉnh [[Giang Tô]], [[Trung Quốc]]; thời Đông Tấn do kị húy tên của [[Tấn Mẫn Đế]] nên đổi thành Kiến Khang</ref>. Vương Đạo cùng anh họ là [[Vương Đôn]] ra sức theo phò và tranh thủ sự ủng hộ của các quý tộc miền nam cho [[Tư Mã Duệ]]. Cuối đời Vĩnh Gia, Vương Đạo nhận chức thái thú Đơn Dương rồi Phụ quốc tướng quân, Ninh Viễn tướng quân, sau lại đổi thành Chấn Uy tướng quân. Sang năm [[318]], [[Tây Tấn]] bị tiêu diệt, [[Tư Mã Duệ]] lên ngôi hoàng đế ở miền nam, lập ra nhà [[Đông Tấn]] ([[317]] - [[420]]), Vương Đạo trở thành đại thần có uy vọng, được ban chức Thái phó rồi Thị trung, Tư không, Lục thượng thư, ngang quyền với tể tướng. Lúc anh họ [[Vương Đôn]] khởi loạn chống lại triều đình, Vương Đạo vẫn một lòng phò trợ [[Tấn Nguyên Đế]]. Sau khi [[Tấn Minh Đế]] lên kế vị, Vương Đạo trở thành người phụ chính, giữ chức Trung thư lệnh, thứ sử Dương châu, tước Thủy Hưng quận công, đồng thời được ban vinh dự to lớn là được đem kiếm lên điện, nhập triều không xưng tên,... Thời gian nắm quyền ở miền nam, Vương Đạo chủ trương: ''Cứ bình tĩnh rồi tình hình sẽ tự yên'' do đó chỉ tập trung xây dựng thế lực và giữ gìn bờ cõi, không có ý khôi phục lại [[Trung Nguyên]]. Năm [[339]], ông qua đời, hưởng thọ 64 tuổi, được truy tặng là Thủy Bình Văn Hiến công và được an táng với nghi lễ long trọng.
 
== Thân thế và thời trẻ ==