Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Bát Quái”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: Thành Phố → Thành phố (2), Tây SơnTây Sơn using AWB
n →‎Kiến trúc và địa thế: sửa chính tả 3, replaced: Hà TiênHà Tiên using AWB
Dòng 50:
Thành có 8 cửa, phía nam là cửa Càn Nguyên và cửa Li Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiền, phía đông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấm Chí, phía tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Thời Minh Mạng đổi tên các cửa: phía nam là cửa Gia Định và cửa Phiên An, phía bắc là cửa Củng Thần và cửa Vọng Thuyết, phía đông là cửa Phục Viễn và cửa Hoài Lai, phía tây là cửa Tĩnh Biên và cửa Tuyên Hóa.<ref name=cinet>[http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/mythuat/kientruc/00000010.htm Thành Trấn] mục từ viết về Thành Trấn Gia Định, của [[Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch Việt Nam]].</ref>
 
Các điểm dân cư, công trình kiến trúc hình thành từ tận khi những người [[Minh Hương]] đến đây vào khoảng năm 1680: công trình kiến trúc lúc này có là đồn lính, kho lương thảo, dinh quan trấn thủ như: kho Quản Thảo, [[dinh Tân Thuận]], [[dinh Nặc Nộn]], cùng một hệ thống đồn lính ngay [[cảng Bến Nghé]]. Các công trình tôn giáo và chợ búa phục vụ nhu cầu người dân, binh lính hình thành như [[chợ Điều Khiển]], [[chùa Cây Mai]]. Đồng thời một số địa danh phản ánh sự hình thành điểm dân cư như Bầu Tròn, Thị Nghè, Đất Hội cũng ra đời. Từ năm 1801, nhờ sự hỗ trợ của Pháp, Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thành lập [[nhà Nguyễn|triều Nguyễn]], thống nhất Việt Nam. Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng trấn Nam Kỳ và trú đóng tại Sài Gòn. Các công trình chợ búa, cảng, cửa hàng. kho hàng, các khối ngành nghề thủ công… xung quanh thành Bát Quái phát triển theo, xoá đi những điểm chợ búa và thương mại cũ ngày xưa và phần ''thị'' được hình thành một cách tự phát. Vì tình hình bất ổn, nhiều [[người Hoa (Việt Nam)|người Hoa]] ở [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]], [[Định Quán]] cũng chạy về vùng Sài Gòn gần thành Bát Quái hình thành nên vùng Chợ Lớn, giao thông với thành Bát Quái bằng kênh Tàu Hủ và một con đường độc đạo. Số cư dân của thành năm 1819 là khoảng một trăm tám chục ngàn (180.000) dân bản địa và mười ngàn (10.000) người Trung Quốc.<ref name=sach/><ref>Theo tài liệu của tập san Hội Cổ Học Ấn Hoa, Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, năm 1942, tập số 2</ref>
 
==Chú thích==