Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận đồn Kiên Giang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Biên bản hỏi cung: chính tả, replaced: dầy → dày
n →‎Trước trận chiến: sửa chính tả 3, replaced: Hà TiênHà Tiên using AWB
Dòng 20:
Sau lần đốt được tàu ''L’Espérance'' của Pháp tại vàm sông Nhật Tảo ([[Long An]]), Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân tiếp tục chiến đấu qua lại trên các địa bàn [[Gia Định]], [[Biên Hòa]].
Đến khi [[Hòa ước Nhâm Tuất (1862)|Hòa ước Nhâm Tuất 1862]], ba tỉnh miền Đông lọt vào tay Pháp, Nguyễn Trung Trực nhận chức Lãnh binh, rút quân về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông được triều đình phong chức ''Hà Tiên thành thủ úy''<ref>Theo biên bản hỏi cung tại [[Khám Lớn Sài Gòn]]. Có tài liệu nói Nguyễn Trung Trực nhận chức khi ở Tân An, có tài liệu nói ông ra [[Bình Định]] nhận chức.</ref> để trấn giữ đất [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]], nhưng chưa kịp đến nơi thì tòa thành này đã bị quân Pháp chiếm vào ngày [[24 tháng 6]] năm [[1867]]. Không theo lệnh triều đình rút quân ra [[Bình Thuận]], Nguyễn Trung Trực đem quân về lập chiến khu ở Sân chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện [[An Biên]], tỉnh Kiên Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện [[Kiên Lương]], tỉnh Kiên Giang, lập thêm căn cứ kháng Pháp.
 
==Chuẩn bị==