Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đường ray”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:23.4020000 |
Chính tả |
||
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
[[Tập tin:Spoorbaan houten dwarsliggers alphen aan den rijn.jpg|nhỏ|phải|250px|Đường ray.]]
'''Đường ray''' hay '''đường rầy''' là thành phần cơ bản trong '''[[giao thông đường sắt]]'''. Đường ray cùng với bộ phận chuyển ray (bẻ ghi) dẫn hướng cho [[tàu hỏa|tàu hoả]] hay [[xe điện]] di chuyển mà không cần lái. Tuyến đường ray gồm 2 ray [[song song]] với nhau đặt trên các thanh ngang gọi là [[tà vẹt]], tà vẹt được đặt trên lớp [[đá dăm]] gọi là đá [[ba lát]]. Liên kết giữa các thanh ray và thanh nối tà vẹt là đinh ray, đinh ốc hoặc kẹp. Loại liên kết phụ thuộc một phần vào loại vật liệu tà vẹt, các loại đinh được dùng khi tà vẹt bằng gỗ, còn nếu tà vẹt bằng [[bêtông|bê tông]] thì phần lớn dùng kẹp ray hoặc dùng liên kết bằng [[bulông|bu lông]].
Với loại tà vẹt bằng gỗ, người ta thường đặt bản đệm giữa thanh ray và tà vẹt tăng diện tích truyền áp lực của thanh ray xuống tà vẹt (để làm giảm [[ứng suất]]). Hoặc người ta bắt đinh thẳng từ thanh ray xuống xuyên qua lỗ trên bản đệm, hoặc người ta bắt đinh liên kết bản đệm với thanh tà vẹt, còn thanh ray bắt vào bản đệm bằng kẹp.
Có nhiều loại đường ray (gỗ, sắt, thép) qua các thời kỳ phát triển, trong đó đường ray thép chịu được tải trọng lớn nhất và hiện nay người ta hầu như chỉ sử dụng loại ray thép (do đó phương thức vận tải này được gọi là đường sắt). Các thanh tà vẹt có chức năng phân bố áp lực xuống lớp đá ba lát, rồi từ đá ba lát truyền xuống nền đất, ngoài ra nhiệm vụ của thanh tà vẹt còn là giữ khoảng cách cố định giữa 2 thanh ray, khoảng cách này gọi là [[khổ đường sắt]], hay [[khổ đường ray]]. Lớp đá ba lát là đá dăm thô (đá xay, đá vụn) có tính chất vừa cứng vừa đàn hồi (khó vỡ), lớp đá ba lát còn có chức năng tiêu thoát nước. Ngoài ra thanh ray còn có thể đặt trực tiếp lên tấm
==Ray==
Ray (từ chữ ''Rail'' trong [[tiếng Pháp]]) là bộ phận chịu ứng suất rất lớn đồng thời phải chịu mài mòn do bánh [[tàu hỏa|tàu hoả]] hay [[xe điện]]
Dạng ray phổ biến nhất là dạng [[mặt cắt chữ I]] không đối xứng, [[cán nóng]]. Nói chung [[tải trọng]] càng lớn thì đòi hỏi kích thước ray phải lớn tương ứng.
Dòng 35:
===Ray nối bằng bulông===
Là phương pháp nối các thanh ray bằng cách dùng các bản thép nối gọi là bản cá hay bản nối và bắt
Bản cá thường dài khoảng 60 cm được bắt bulông vào hai đầu 2 thanh ray cần nối. Số lượng
Do phải chừa các khe co giãn nên khi bánh tàu hỏa chay qua mối nối ray sẽ phát ra âm thanh va chạm. Do vậy tàu lửa chạy trên tuyến sẽ không êm thuận bằng tuyến đường sử dụng kỹ thuật nối ray bằng phương pháp hàn, đồng thời vận tốc cũng không cao.
Một vấn đề lớn nữa là tình trạng xảy ra nứt xung quanh lỗ
===Mối nối cách điện===
Trên đoạn đường sắt có sử dụng đèn tín hiệu, đường ray còn đóng vai trò truyền điện do vậy xuất hiện yêu cầu phải phân cách đoạn ray này với các đoạn khác. Các mối nối này rất yếu, và người ta chèn keo epoxy vào khoảng trống giữa hai thanh ray do đó cũng cải thiện được khả năng chịu lực của các mối nối này.
===Ray hàn===
Dòng 55:
==Các cách cố định ray vào tà vẹt==
Có nhiều phương pháp cố định thanh ray vào tà vẹt gỗ. Chuẩn ray hiện đại là loại ray đáy bằng (flat-bottomed), loại này như tên gọi của nó, có đáy phẳng giúp cho thanh ray có thể tự đứng không cần bệ đỡ. Thanh ray thường được gắn vào tà vẹt với một tấm đệm thép, tuy nhiên có thể gắn
Các thanh tà vẹt hiện đại làm bằng
===Dùng đinh===
Dòng 74:
===Đường ray không tà vẹt===
[[Tập tin:Feste Fahrbahn FFBögl.jpg|nhỏ|250px|phải|Đường ray không tà vẹt]]
Trong những năm gần đây người ta đã phát triển các phương pháp đặt thẳng các thanh ray lên tấm
==Khổ đường ray==
|