Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Ngọc Sang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Quân đội Việt Nam Cộng hòa: sửa chính tả 3, replaced: thứ 6 của → thứ sáu của using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
| hình=
| tên= Phạm Ngọc Sang
| ngày sinh= 12-8-{{ngày sinh|1931|8|12}}
| ngày mất= 39-11-{{ngày mất và tuổi|2002|11|30|1931|8|12}}
| nơi sinh= [[Gia Định]], VN[[Việt Nam]]
| nơi mất= [[California]], [[Hoa Kỳ]]
| thuộc= [[Tập tin: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1951-1975
| cấp bậc= [[Tập tin: US-O7 insignia.svg|14px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= [[Không lực Việt Nam Cộng đoànhòa|Quân 6chủng Không quân]]
| chỉ huy= [[Tập tinHình: Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Tập tinHình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]]<br/> [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
}}
 
'''Phạm Ngọc Sang''' (1931-2002), nguyên là một tướng lĩnh Không quânQuân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] mangcấp quân hàmbậc [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho ngành bộBộ binh do Quân đội Quốc gia thành lập dưới sự hỗ trợ của Quân đội Pháp. Tuy nhiên, sau đó ông nộp đơn dự thi và trúng tuyển vàochuyến Quân chủngsang Không quân. Ông đã phục vụ ở Quân chủng này cho đến ngày cuối cùng củatrong Chínhcuộc thểđời Việtbinh Namnghiệp Cộngcủa hòamình.
 
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Ông sinh ngày 12/8/1931 tạitháng 8 Bìnhnăm Hoà1931, [[Gia Định]], Nam phần Việt Nam trong một gia đình thương nhân khá giả tại xã Bình Hòa (1), Gia Định, miền Nam Việt Nam. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Cuối tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/600.003. Theo học khoá 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hưởng quy chế hiện dịch. Ra trường, ông được điều đi phục vụ tại Trung đoàn 17 Bộ binh với chức vụ Trung đội trưởng, đồn trú tại Trà Vinh. Tháng 10 cùng năm, ông trúng tuyển chuyển sang Quân chủng Không quân. Cuối năm, ông được cử đi du học khóa huấn luyện Hoa tiêu Vận tải cơ DC.3 ''(C.47)'' và được huấn luyện thêm loại phi cơ T.6 tại trường Không quân Marrakech, Maroc ''(thuộc địa của Pháp)''. Đến tháng 8 năm 1953, chuyển sang căn cứ Không quân Avord, học lái phi cơ MD.312. Trung tuần tháng 2 năm 1954, ông tốt nghiệp khóa Hoa tiêu và chuyển qua Blida, Algérie, học bắn và oanh tạc trên phi cơ MD.315. Tháng 5 cùng năm, thụ huấn chuyển tiếp trên DC.4 ''(C.54)'' tại Orleans, Pháp. Sau đó ông được thụ huấn thêm để lấy bằng Hoa tiêu Vận tải tại Trung tâm Huấn luyện Vận tải Toulouse, Pháp. Cuối năm ông được thăng cấp [[Trung úy]].
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Tháng 2 nămNăm 1955, trước khi diễn ra cuộc Tổng tuyển cử hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa. Tháng 2, mãn khóa hồi hương, ông cùng với các Trung úy Huỳnh Hữu Hiền và Lý Tri Tình ''(là 3 Hoa tiêu đầu tiên của Không quân Việt Nam tốt nghiệp tại Trung tâm Toulouse. Sau khi mãn khóa hồi hương)'', ông tham gia vận chuyển đồng bào di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn. Tháng 10 cùng năm ông được thăng cấp [[Đại úy]] giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đội Liên lạc ''(trước là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm, thành lập ngày 1 tháng 8 năm 19512)'' thay thế Đại úy Huỳnh Hữu Hiền đi du học khóa huấn luyện viên Khu trục tại Pháp. Cuối năm, ông được tuyển chọn làm Phi công riêng cho Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]].
 
Giữa năm 1956, ông được cử đi du học khóa huấn luyện trên Vận tải cơ DC.4 tại Căn cứ Không quân Hickam Field, Honolulu, Tiểu bang Hawaii (3), Hoa Kỳ. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định hướng dẫn Phái đoàn Không quân Việt nam Cộng hòa công du thăm viếng Hoa Kỳ.
 
Cuối năm 1959, ngàyNgày Quốc khánh năm thứ tư của Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp [[Trung tá]]. Qua đầuĐầu năm 1961, ông được cử đi du học khoákhóa chỉChỉ huy và thamTham mưu cao cấp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ.
 
Cuối năm 1964, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang thay thế Đại tá [[Lê Trung Trực]]. Đến giữa năm 1965, ông được lệnh bàn giao Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Nguyễn Văn Ngọc để đi giữ chức vụ Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật tại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt.
 
Đầu năm 1966, ông chuyển vềsang lĩnh vực vănVăn phòng, giữ chức vụ Chánh phòng Phủ Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương ''(Phủ Thủ tướng). Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1969, ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được cử theo học khóa Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Đến giữa năm 1971, được cử đi du học khóa Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
 
Tháng 10 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Không quân tân lập thứ sáu6 của Không lực Việt Nam Cộng hòa tại Pleiku. Trung tuần tháng 12 năm 1973, ông được tuyên dương công trạng trước Quân đội kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1969, ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được cử theo học khóa Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Đến giữa năm 1971, được cử đi du học khóa Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
 
Tháng 10 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Không quân tân lập thứ sáu của Không lực Việt Nam Cộng hòa tại Pleiku. Trung tuần tháng 12 năm 1973, ông được tuyên dương công trạng trước Quân đội kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
 
Ngáy 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
Hàng 40 ⟶ 39:
Ngày 15 tháng 3, được lệnh di tản chiến thuật Sư đoàn 6 Không quân từ Pleiku xuống Phan Rang.
 
Trưa ngày 16 tháng 4, ông bị quân đối phương bắt cùng với Trung tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]], bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh HoàHòa rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng liên Sơn, Hà Tây, Hà Sơn Bình, Nam Hà. Sau đó, ngày 31 tháng 11 năm 1988 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z30Z.D30D Hàm Tân, Bình Thuận. Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1992 ông mới được trả tự do.
 
Ngày 22 tháng 2 năm 1992, ông cùng với gia đình xuất cảnh theo chương trình "Ra đi có trật tự" diện H.O. Sau đó định cư tại Garden Grove, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
 
Ngày 30 tháng 11 năm 2002, ông từ trần tại nơi định cư. Hương thọ 71 tuổi.
Hàng 50 ⟶ 49:
*Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Bôn (Sinh năm 1933) - Ông bà có 5 người con gồm: 3 trai, 2 gái.
 
==ThamChú khảothích==
*(1) -Xã Bình Hòa là nơi đặt Trung tâm Hành chính, đồng thời cũng là tỉnh lỵ của tỉnh Gia Định ''(nay thuộc quận Bình Thạnh, Tp HCM).
{{tham khảo}}
*(2) -Tiền thân là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm của Quân đội Liên hiệp Pháp, thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1951.
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011) ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
*(3) -[[Hawaii]] (Hạ Uy Di) là một quần đảo nằm ở phía bắc Thái Bình Dương. Từ năm 1898 là một lãnh thổ tự trị thuộc Hoa Kỳ. Ngày 21 tháng 8 năm 1959, chính thức trở thành Tiểu bang thứ 50 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Là Tiểu bang Hải ngoại thứ 2 của Hoa Kỳ sau Tiểu bang [[Alaska]].
 
==Xem thêm==
*[[Chiến dịch Phan Rang - Xuân Lộc]]
 
==ChúTham thíchkhảo==
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
 
[[Thể loại:Sinh 1931]]
Hàng 63 ⟶ 64:
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Sài Gòn]]
[[Thể loại:Người Mỹ gốc Việt]]