Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Súng tiểu liên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Lịch sử phát triển: sửa chính tả 3, replaced: Thế chiến thứ hai → Chiến tranh thế giới thứ hai using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:MP5kSubmachine gun wz63.JPGjpg|nhỏ|phải|300px|Tiểu liên MP5[[PM-63 RAK]] do [[ĐứcBa Lan]] chế tạo, 9mm]]
'''Súng tiểu liên''' là loại vũ khí cá nhân tầm gần, thuộc họ [[súng máy]], cũng thuộc họ [[súng tự động]] tùy theo phân loại của các quốc gia. Tiểu liên có thể có tầm bắn lý thuyết lên đến 1.000 m ([[AK-47]], [[M16]]) nhưng cự li sát thương có hiệu quả thường không quá 400 m, có loại chỉ 100 m (M3); cỡ nòng từ 5,56&nbsp;mm (M16) đến 12&nbsp;mm (M3), phổ biến nhất là hai cỡ nòng 5,56&nbsp;mm (tiêu chuẩn [[NATO]]) và 7,62&nbsp;mm (tiêu chuẩn [[khối WarsawaWarszawa]]). Do cấu tạo trích khí gián tiếp hoặc trực tiếp để lùi khóa nòng phối hợp với lò xo đẩy đạn, lò xo hồi khóa nòng để nạp đạn tự động, tiểu liên có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm súng có thể đạt 600 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu khoảng 100 phát/phút. Hộp tiếp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên. Một số loại tiểu liên cỡ lớn (AK-47) có thể lắp lưỡi lê để có thể giáp lá cà. Trong chiến đấu, tiểu liên tạo mật độ hỏa lực cao khi tấn công bằng cách bắn rải, bắn quét. Trong phòng ngự, tiểu liên phát huy độ chính xác khá cao khi bắn điểm xạ (2 đến 3 phát liên tục).<ref>Từ điển bách khoa [[Việt Nam]]. Tập 4 (T-Z). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 2005. trang 409.</ref>
 
== Lịch sử phát triển ==
Súng tiểu liên đầu tiên được phát minh tại [[Đức]] là khẩu [[MP-18/1]] và được gọi là ''Maschinenpistole'' nghĩa là « súng ngắn tự động »; được người Đức sử dụng từ cuối [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Đầu năm 1918, Hoa Kỳ cũng thử nghiệm xong và cho ra đời khẩu [[M3 Grease Gun]] dùng đạn chế tạo riêng cỡ 12mm nhưng chưa kịp đưa vào sử dụng thì chién tranh kết thúc. Từ năm 1918 và trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] các nước có nền công nghiệp phát triển lần lượt độc lập nghiên cứu chế tạo các loại tiểu liên để trang bị cho bộ binh. Hoa Kỳ có khẩu [[M3 Gease]]Grease Gun, Pháp có khẩu [[MAT]], Anh có các khẩu [[Tul]] và [[Sten]]. Mãi đến giữa năm 1941, [[Liên Xô]] mới cho ra lò khẩu tiểu liên [[PPSh-41]] đầu tiên có băng đạn tròn.
 
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], quân Đức phát triển chế tạo và sử dụng rộng rãi loại tiểu liên [[MP-40]]. Biên chế mỗi đại đội bộ binh Đức thời kỳ này thường có riêng một trung đội sử dụng tiểu liên [[MP-40]]. Các loại tiểu liên của Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nga cũng được chế tạo hàng chục triệu khẩu và sử dụng rộng rãi.
 
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà phát minh Xô Viết [[Mikhail Timofeyevich Kalashnikov|Mikhail Timofeevich Kalashnikov]] đã thiết kế các mẫu súng AK-1 và AK-2 có những đặc điểm nổi bật như sử dụng tiện lợi trong điều kiện các điều kiện môi trường băng giá, ẩm ướt, bùn lầy, hoặc sa mạc đầy cát bụi. Đến năm 1947, khẩu [[AK-47]] ra đời và được đưa vào biên chế trang bị cho [[Hồng Quân|Quân đội Liên Xô]]. Mặc dù là tiểu liên nhưng do kích thước nòng dài đến 41,5&nbsp;cm, sử dụng đạn súng trường nên khối NATO xếp nó vào loại súng trường tự động (để phân biệt với súng trường bán tự động và súng trường không tự động).
 
Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ trang bị cho mình và đồng minh VNCH loại tiểu liên M-16 và sau đó được cải tiến thành tiểu liên cực nhanh AR-15. Loại súng này nhẹ và sử dụng đạn 5,56&nbsp;mm, tạo điều kiện cho người lính đem nhiều đạn hơn. Tuy nhiên, do đạn 5,56&nbsp;mm nhỏ, thường xuyên qua mục tiêu, ít tạo lỗ phá ra và binh lính Hoa Kỳ cũng như VNCH thường ỷ vào tốc độ bắn cao nên họ thường tiêu thụ rất nhiều đạn nhưng hiệu suất sát thương đối phương không cao. Trong khi đó, đạn 7,62&nbsp;mm bắn từ khẩu AK-47 có kích thuớc và động năng lớn hơn đã có hiệu suất gây thương vong cao hơn cho đối phương bởi lỗ phá ra của vết thương rất lớn.<ref>Nguyễn Hữu Thăng. Vũ khí xưa và nay. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật. Hà Nội. 2002. trang 68.</ref>