Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tác nhân gây ung thư”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 12:
khuẩn(như Helicobacter pylori) và giun sán (như ''Opisthorchis viverrini'' và ''Clonorchis sinensis)''
 
Dioxin và các hợp chất tương đương, benzen, kepone, EDB, và amiăng đều là những chất gây ung thư. Lần lại những năm 1930, khói công nghiệp và khói thuốc lá đã được xem là những nguồn chứa rất nhiều các chất gây ung thư, bao gồmbenzoapyrene, các nitrosamine đặc biệt của thuốc lá như nitrosonoricotine, và các phản ứng aldehyde như formaldehyde-cũng được dùng để ướp xác và chế biến chấtdẻo. Vinyl chloride, trong nhựa PVC cũng là một chất gây ra ung thư do đó các sản phẩm nhựa PVC cũng ẩn chứa các nguy cơ.
Dioxin và các hợp chất tương đương, benzen, kepone, EDB, và amiăng
đều là những chất gây ung thư. Lần lại những năm 1930, khói công nghiệp và khói
thuốc lá đã được xem là những nguồn chứa rất nhiều các chất gây ung thư, bao gồm
benzoapyrene, các nitrosamine đặc biệt của thuốc lá như nitrosonoricotine, và
các phản ứng aldehyde như formaldehyde-cũng được dùng để ướp xác và chế biến chất
dẻo. Vinyl chloride, trong nhựa PVC cũng là một
chất gây ra ung thư do đó các sản phẩm nhựa PVC cũng ẩn chứa các nguy
cơ.
 
Các hoạt chất ung thư (co-carcinogen) là những hóa chất không nhất thiết tự bản thân chúng gây ra bệnh ung thư, nhưng lại thúc đẩy hành vi gây ung thư của các chất gây ra ung thư khác.
nhất thiết tự bản thân chúng gây ra bệnh ung thư, nhưng lại thúc đẩy hành vi
gây ung thư của các chất gây ra ung thư khác.
 
Sau khi các tác nhân gây ung thư đi vào cơ thể, cơ thể sẽ cố gắng cô lập chúng thông qua quá trình biến đổi sinh học. Mục đích là để những chất này dễ tan hơn và do đó có thể dễ dàng đào thải ra khỏi cơ thể hơn. Nhưng quá trình này cũng có thể biến những tác nhân gây ung thư ít độc hại thành những chất độc hại hơn.
Sau khi các tác nhân gây ung thư đi vào cơ thể, cơ thể sẽ cố
gắng cô lập chúng thông qua quá trình biến đổi sinh học. Mục đích là để những
chất này dễ tan hơn và do đó có thể dễ dàng đào thải ra khỏi cơ thể hơn. Nhưng
quá trình này cũng có thể biến những tác nhân gây ung thư ít độc hại thành những
chất độc hại hơn.
 
DNA có tính ái nhân (nucleophilic), do đó các carbon ái điện tử dễ hòa tan là chất gây ung thư, bởi vì DNA tấn công chúng. Ví dụ, vài alken gây độc bởi các enzyme của người thành một epoxide ái điện tử. DNA tấn công epoxide này, và cô lập chúng vĩnh viễn. Cơ chế này cũng giống như cơ chế gây ung thư của benzoapyrene trong khói thuốc lá, các hóa chất gốc thơm (benzen), bào tử nấm và hơi độc lò.
DNA có tính ái nhân (nucleophilic), do đó các carbon ái điện
tử dễ hòa tan là chất gây ung thư, bởi vì DNA tấn công chúng. Ví dụ, vài alken
gây độc bởi các enzyme của người thành một epoxide ái điện tử. DNA tấn công
epoxide này, và cô lập chúng vĩnh viễn. Cơ chế này cũng giống như cơ chế gây
ung thư của benzoapyrene trong khói thuốc lá, các hóa chất gốc thơm(benzen),
bào tử nấm và hơi độc lò.
 
Chú ý: nhìn chung, các chất polymer không phải là các chất gây nên ung thư, hoặc tác nhân gây đột biến, tuy nhiên các monomer (đơn chất
tham gia vào quá trình tạo thành polymer) còn sót lại hoặc các chất phụ gia có thể làm hại đến gen người.
gây nên ung thư, hoặc tác nhân gây đột biến, tuy nhiên các monomer(đơn chất
tham gia vào quá trình tạo thành polymer) còn sót lại hoặc các chất phụ gia có
thể làm hại đến gen người.
 
== '''Phóng xạ ''' ==
'''CERCLA''' thừa nhận
tất cả các đồng vị phóng xạ đều là chất gây ung thư, cho dù chúng phóng ra tia