Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiên hoàng Kanmu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: , → , using AWB
Dòng 1:
'''Kanmu''' (桓 Kanmu-Tenno, 737-806) là Thiên hoàng thứ 50<ref>[[Imperial Household Agency&usg=ALkJrhgPrYm-GoftxZm-5aJmW-pXE2pB5w|Imperial Household Agency]] ( Kunaichō ): 桓武天皇 (50) </ref> của Nhật Bản theo danh sách thứ tự kế thừa<ref>Nussbaum, Louis-Frédéric (2005). "Etchū" in Japan Encyclopedia , p. 464</ref>. Kanmu trị vì từ năm 781 đến 806<ref>[[Isaac Titsingh&usg=ALkJrhg5Kp7n59VbnaEvUyRebWV8JJ3XCA|Titsingh, Isaac]] . (1834). ''Annales des empereurs du Japon, p. 86-95''</ref>.
 
== Tường thuật truyền thống ==
Tên thật (''[[Imina&usg=ALkJrhg1wps-jfwwz04h8AxHF8-hfsw-Fw|imina]]'' ) của Kanmu là hoàng tử Yamabe. Ông là con trai cả của [[Thiên hoàng Kōnin]] có với mẫu hậu là hậu duệ đời thứ 10 của vua Bách Tế (Triều Tiên) là [[Muryeong of Baekje&usg=ALkJrhiKA15OArn8i0acg6IKPreVDi1q Q|Muryeong]].
 
Sau khi cha ông trở thành Thiên hoàng, anh trai của ông là Hoàng tử Osabe được bổ nhiệm vào chức Thái tử. Mẹ của Osabe là công chúa Ikami, con gái của [[Thiên hoàng Shōmu]] được phong làm hoàng hậu. Sau khi hai mẹ con thái tử Osabe qua đời bất ngờ năm 775, hoàng tử Yamabe lên làm thái tử và ông đã cưới người chị là công chúa Sakahito làm hoàng hậu<ref>Ko Dorothy; Haboush, JaHyun Kim; Piggott, Joan R. (2003), (2003). Women and Confucian cultures in premodern China, Korea, and Japan . [[University of California Press&usg=ALkJrhi9b8-pxBpeu9bsvokMWhvplsHLMg|University of California Press]] via [[Google Books&usg=ALkJrhiDKUjg8BUyJnq TGAuHggbZc-rvg|Google Books]] .</ref>. Sau khi ông lên ngôi năm 781, ông cử em trai là [[Prince Sawara&usg=ALkJrhj2azH5BkJe28wlHAtT0dtFR6lVbA|Hoàng tử Sawara]] là phụ chính. Tuy nhiên, một người em khác của ông là Hikami no Kawatsugu (con của hoàng thân Shioyaki và là cháu của [[Thiên hoàng Tenmu]]) đảo chính lật đổ Thiên hoàng năm 782, nhưng ông ta bị thất bại và đến năm 785 thì bị triều đình bắt đi đày.
 
Thiên hoàng Kanmu có 16 hoàng hậu và nhiều phu nhân, sinh ra 32 người con gồm trai lẫn gái. Trong số đó, ba người con trai cuối cùng sẽ lên ngai vàng Thiên hoàng: Thiên hoàng Heizei, Thiên hoàng Saga và Thiên hoàng Junna. Một vài người cháu nội của Thiên hoàng Kanmu lần đầu được ban cái tên Taira năm 825 hay muộn hơn. Sau đó, con cháu của Thiên hoàng Nimmyō, Thiên hoàng Montoku, và Thiên hoàng Kōkō cũng được ban họ này. Đặc trưng các chi từ các Thiên hoàng này được thể hiện bằng thụy hiệu của Thiên hoàng trước chữ Heishi. Vd: Kanmu Heishi. Nhà Taira là một trong bốn gia tộc quan trọng thống trị nền chính trị Nhật Bản suốt thời Heian (794-1185) – ba nhà còn lại là Fujiwara, Tachibana và Minamoto.
 
== Trị vì ==
Ngày 30/4/781, [[Thiên hoàng Kōnin]] thoái vị và nhường ngôi cho con trai, hoàng tử Yamabe. Hoàng tử lên ngôi Thiên hoàng, lấy hiệu là Kanmu. Kanmu đổi niên hiệu mới là ''Ten'ō'' nguyên niên (781). Vừa lên ngôi, ông đưa Nho giáo thành quốc giáo.
 
Ngày 28/7/782, Kanmu đổi niên hiệu thành ''[[Enryaku&usg=ALkJrhjAI3SVw9fwhV2S6j7R0EyKIDhG-w|Enryaku]]'' nguyên niên. Lúc này ở cung đình đã diễn ra cuộc đảo chính do các đại thần mà cầm đầu là Fujiwara no Uona chống lại Thiên hoàng trẻ tuổi. Cuộc đảo chính thất bại, nó Uona rời đất nước đi lưu vong. Fujiwara no Tamaro được cử làm Udaijin. Cũng trong niên hiệu này, Thiên hoàng cử Shogun Sakanoue no Tamuramaro (758-811) dẫn đầu một đoàn thám hiểm quân sự chống lại Emishi.
 
Năm 784, Thiên hoàng dời đô từ Nara đến Nagaoka-kýō để tiện việc xây dựng các đền thờ, chùa Phật giáo. Việc tại sao chọn vùng Nagaoka làm kinh đô mới thì có lối giải thích là cả Thiên hoàng Kanmu lẫn người chỉ huy việc xây cất cung điện (Fujiwara no Tanetsugu) đều có mẹ gốc nhập cư xuất thân tự vùng này. Họ có liên hệ mật thiết với cánh nhà Hata tức một thế lực đến từ lục địa<ref>http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/GiaoTrinhLSNhatBan/NNT_GTLichSuNB_1_ch03.htm</ref>. Đồng thời, Kanmu ra sắc lệnh hạn chế số lượng các tu sĩ Phật giáo. Động thái dời đô và xây dựng nhiều đền đài làm nhân dân khánh kiệt, một trận lũ tràn qua làm ngập một nửa thành phố Nagaoka và nhân dân đói khổ. Trong năm này (784), Kanmu mở các lớp dạy người dân học kinh Xuân Thu của Trung Hoa. Thiên hoàng khuyến khích sử dụng hai bài luận của Trung Hoa: Kung-yang and Ku-liang, làm công cụ mở rộng phạm vi của mình ảnh hưởng đến những vùng đất man rợ, do đó có sự hài lòng của người dân Nhật Bản.
 
Năm 789, Nhật Bản liên tiếp hứng chịu hạn hán và nạn đói triền miên. Các đường phố của thủ đô đã bị tắc với người bệnh, người đói chết tràn lan. Nhiều người đói và mất của cải đó mùa màng thất bát đã phải tham gia quân đội triều đình, lao động cưỡng bức xây dựng các đền đài. Một số lớn người dân cải trang làm tu sĩ Phật giáo để trốn tránh. Cũng trong năm nay, một cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân chống triều đình nổ ra mạnh mẽ, nhiều lần đánh bại quân đội Thiên hoàng.