Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Voi chiến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:War-elephant-illustrated-london-news.jpg|nhỏ|phải|TheVoi elephant'schiến thickcủa hidequan protectedtrấn itthủ from[[Lahore]] injury.bị Thetấn highcông riding position gave the rider a good view but made him a visible target(1845).]]
 
'''Voi chiến''' là [[voi]] được huấn luyện dưới sự chỉ huy của [[loài người|con người]] để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, dày xéo và phá vỡ hàng ngũ của quân địch. Chúng được sử dụng đầu tiên ở [[Ấn Độ]], sau phép dùng voi chiến lan sang vùng [[Đông Nam Á]] và [[Trung Đông]] tới tận [[Địa Trung Hải]]. Theo sửcác tư liệu [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp cổ]], quân đội Ấn Độ đã dùngtriển khai tượng binh chống trả khihiệu quả trong các cuộc xâm lược của [[Nữnữ vương|Nữ hoàng]] [[Semiramis]] củaxứ [[Assyria|Đế quốc Assyria]] mở cuộc hành chinh đánh sang Ấn Độ.<ref>Samuel Griswold Goodrich, ''Parley'svua common[[Đế schoolquốc historyBa ofTư|Ba the world: A pictorial history of the world, ancient and modern, for the use of schools'', trang 19</ref>Tư]] [[Cyrus Đại đế|Cyrus Đại Đế]] của [[Đế quốc Ba TưII]] (530 TCN) và vua [[AlexandrosVương Đạiquốc đếMacedonia|AlexandrosHy Đại ĐếLạp]] của [[VươngAlexandros quốcĐại Macedoniađế|Alexandros]] (326 TCN) cũng phải gặp đoàn tượng binh của Ấn Độ.<ref name="Nososov10">Konstantin Nossov, ''War Elephants'', trang 10</ref><ref name="Deborah81">Deborah Levine Gera, ''Warrior women: the anonymous Tractatus de mulieribus'', trang 81</ref> Sử phương Tây còn ghi lại cuộcsự hànhhiện chinhdiện nổicủa tiếngnhững thờiđoàn [[Hannibal]]voi chiến hùng hậu trong cuộc chinh chiến của vua xứHy Lạp [[CarthagePyrros của Ipiros|Pyrros]] khitrên tướngbán Hyđảo LạpÝ và đặc biệt cuộc hành quân của thủ lĩnh người [[PyrrosCarthage]] kéo quân[[Hannibal]] vượt [[Andãy SơnAnpơ]] đánh [[Đế quốc La Mã|La Mã]] với một đoàn voi chiến hùng hậu. Tuy nhiên giá trị voi chiến ở phương Tây không được khai thác mấy, phần vì nguồn voi hoang bản địa ở vùng Địa Trung Hải giảm nhiều. Trong khi đó ở phương Đông với môi trường lý tưởng cho loài voi sinh sản thì mãi đến [[thế kỷ 19]] khi [[pháo|súng đại bác]] xuất hiện thì voi chiến mới bị vô hiệu hóa. Loài voi từ đó chủ yếu chỉ dùng làm phương tiện chuyên chở, kéo gỗ v.v.
 
==Lịch sử==
Dòng 8:
Loài voi đầu tiên được thuần dưỡng là [[Voi châu Á]] để sử dụng trong nông nghiệp. Việc thuần dưỡng voi - không phải là sự thuần hóa đầy đủ vì chúng vẫn còn bị bắt trong hoang dã,chứ không phải được gây giống trong tình trạng nuôi nhốt. Có thể đã bắt đầu ở một trong 3 vùng đất khác nhau. Những bằng chứng cổ xưa nhất của voi được thuần hóa là ở khu vực Lưỡng Hà đạo, khoảng 4.500 năm trước đây.{{fact|date=7-2014}} Một khu vực khác là nền văn minh thung lũng sông Ấn, vào cùng khoảng thời gian này.<ref>[http://www.historyworld.net/wrldhis/PlainTextHistories.asp?ParagraphID=ayt#1822 HISTORY OF THE DOMESTICATION OF ANIMAL]</ref> Những bằng chứng về sự hiện diện của voi hoang dã là ở khu vực thung lũng sông Hoàng Hà vào thời [[nhà Thương]] (1600-1100 TCN) cũng đã dẫn đến việc Trung Quốc đang được đề xuất như là một nơi bắt đầu của việc thuần dưỡng voi.<ref>Schafer, 289&ndash;290.</ref> Số lượng voi hoang dã ở khu vực Lưỡng Hà và Trung Quốc đã suy giảm nhanh chóng do nạn phá rừng và sự gia tăng dân số: tới năm 850 TCN, loài voi ở [[Lưỡng Hà]] đã tuyệt chủng và ở Trung Quốc cho tới khoảng năm 500 TCN, loài voi đã bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng và bị giới hạn ở khu vực phía nam [[hoàng Hà|sông Hoàng Hà]]. Việc [[săn bắt voi]] trong thiên nhiên là một điều khó khăn nhưng cần thiết.
 
===Thời cổ: Ba Tư, Ấn Độ và Alexandros Đạixứ Macedonia đế===
[[Tập tin:The phalanx attacking the centre in the battle of the Hydaspes by Andre Castaigne (1898-1899).jpg|phải|nhỏ|200px|Tranh thời [[Victoria của Anh|Victoria]] cho thấy cuộc tấn công của voi chiến [[Trận sông Hydaspes|Trận đánh sông Hydaspes]].]]
Thời điểm voi chiến được dùng trong chiến trận đến nay vẫn chưa được xác định. Trong những bài tán trong [[kinh Vệ Đà]] thời văn minh Ấn Độ cổ đại có niên đại vào khoảng một ngàn đến hai ngàn năm [[Công Nguyên|TCN]] có nhắc đến voi dùng là phương tiện vận chuyển. Trong đó có chuyện về [[Indra]] và con voi thần [[trắng|màu trắng]], Airavata.<ref>[http://www.hinduwebsite.com/hinduism/vedicgods.asp. The Vedic Pantheon]</ref> Tập truyện [[Mahabharata]], có niên đại khoảng thế kỉ 8 TCN,<ref>Sankalia, 1963.</ref> và [[Ramayana]] (thế kỉ thứ 4 TCN) cũng ghi rằng voi được con người nuôi và dùng làm con vật chuyên chở nhưng không ghi gì về tượng binh hoặc việc dùng voi trong chiến trận.<ref>Nossov, p. 10.</ref> Trong các kinh văn nói về [[Chuyển Luân Thánh Vương]] (''Chakravartin'' &ndash; vị vua hiền đức trị vì toàn cõi Diêm Phù Đề trong dân gian Ấn Độ), tiêu biểu như kinh Hiền Ngu (''Bàlapandita sutta'') hay kinh Đại Thiện Kiến Vương (''Mahàsudassana sutta'') của [[Trường bộ kinh]] thuộc hệ Pali, [[Phật|Phật tổ]] [[Thích-ca Mâu-ni]] (''Shakyamuni Buddha'') để mô tả "báu voi trắng lớn" là một trong "bảy báu" &ndash; cách gọi ẩn dụ cho 7 yếu tố xây dựng sự thành công của Chuyển Luân Thánh Vương trong việc trị vì xã tắc. "Báu voi trắng lớn" là tượng trưng cho tiềm lực quân sự của quốc gia.<ref>[http://www.daophatngaynay.com/vn/tu-sach-dao-phat-ngay-nay/15942-b-phan-chanh-kinh-cac-kinh-ve-gia-dinh-xa-hoi-va-chinh-tri-23-kinh-chuyen-luan-thanh-vuong.html Kinh Chuyển Luân Thánh Vương]</ref>
 
[[Thời kỳ cổ đại]], [[văn minh Ấn Độ]] đề cao giá trị của loài voi trong chiến tranh. Họ ví rằng "Quân đội mà không có tượng binh thật đáng coi thường, khác gì rừng không có sư tử, nước không có vua, hay lòng can đảm mà đánh bằng tay không". Theo nhà sử họcgia Hy Lạp [[Diodorus Siculus]], người Hy Lạp cổ đại,khi [[Nữnữ vương|Nữ hoàng]] [[SemiramisAssyria]] của [[Assyria|Đế quốc AssyriaSemiramis]] đã xua quân chinh phạtxâm nướclược Ấn Độ.<ref, name="Deborah81"/> Vị Quốc vương hùng mạnh và giàu có củavua Ấn Độđã liềnxây triệu tậpdựng một độilực quân đông đảo để kháng chiến, và có một độilượng tượng binh hùng hậu.mạnh Mỗiđể conbảo voivệ chiếnquốc có giá trị tương đương với cả một quân đoàn của các binh sĩ tinh nhuệđộ. Nữ hoàng Semiramis không có voi nên dùng lokế sợcho bị Quốc vương Ấn Độ đánh bại. Bà choquân giết rất nhiều thúhương, nuôinai có sừng và lột da chúng, chorồi khâu da chúng thành hình dạng của những con voi. ChúngNhững lớp da này được phủ lên những conthân lạc đà,. Khi khihai rabên trậnquyết chiến, chúngquân dễẤn làmban ngườiđầu tachoáng hoảng hồnngợptưởnghọ luôn voi.tin Vuarằng Ấn Độ bất ngờ vì Đế quốcphía Assyria vốn dĩ không có voi.; Mởnhưng trận,đến Nữkhi hoànghai Semiramisđoàn cùngquân đámáp tượngsát binh giả của bà xông vô đánhnhau, vua Ấn Độphát cùnghiện lựcrằng lượngđoàn "tượng binh" hùngcủa hậuđịch của ônggiả. LúcÔng hai đoànthúc quân tiếnào sátlên vàođánh nhau, quân Ấn Độ nhận thấytan quân Assyria thực chất không có voi nào,xung phong tấn công dữ dội vào Nữ hoàngbuộc Semiramis phải cáctháo binhchạy khỏi Assyria.quốc Quânđộ Assyria đại bại thê thảmẤn.<ref>Samuel Griswold Goodrich, ''A pictorial history of the world, ancient and modern, for the use of schools'', trang 19</ref><ref name="Deborah81"/>
 
Một ghi nhận khác về voi chiến trong chiến tranh cổ đại xuất hiện trong sách "[[Persica]]" của [[Ctesias]], cũng là một sử gia Hy Lạp cổ.<ref name="AKurth101"/> Sách này cho hay vua Amoraios xứ Derbikes và các đồng minh Ấn Động đã triển khai voi chiến để chống lại quân xâm lược [[Đế quốc Ba Tư|Ba Tư]] do vua [[Cyrus Đại đế|Cyrus II]] chỉ huy vào năm 530 trước Công nguyên. Trận đánh diễn ra trên hướng đông bắc thượng nguồn sông [[Syr Darya]]; hai bên giao chiến ác liệt và đều chịu thương vong lớn. Thế trận xoay chuyển khi Amoraios xua tượng binh đột kích đánh tan kỵ binh Ba Tư, Cyrus II bị trọng thương và được quân lính khiêng về doanh trại. Tuy nhiên, quân đội Ba Tư tiếp tục chiến đấu cho đến khi được quân tiếp viện xứ [[Sacae]] tiếp sức; người Derbikes cuối cùng cũng bị đánh bại và chấp nhận thần phục vương triều Ba Tư. Cả 2 vua Cyrus và Amoraios đều chết trận.<ref name="AKurth101">Amélie Kuhrt, ''The Persian Empire'', Tập 2, trang 101</ref>.
Không những thế, theo sử sách "[[Persica]]" của nhà [[lịch sử|sử học]] [[Ctesias]] người [[Hy Lạp cổ đại]],<ref name="AKurth101"/> voi chiến được sử dụng vào năm [[530 TCN]], trong một trận chiến diễn ra giữa [[Đế quốc Ba Tư]] dưới triều [[Hoàng đế]] [[Cyrus Đại đế|Cyrus II]] [[nhà Achaemenes]] (còn gọi là [[Cyrus Đại đế|Cyrus Đại Đế]]), và người [[Derbikes]] do vua [[Amoraios]] trị vì. Đây là ghi chép cụ thể đầu tiên cho thấy lực lượng tượng binh đã được sử dụng trong chiến tranh thời cổ.<ref name="Nososov10"/> Hoàng đế Cyrus Đại Đế đã kéo quân chinh phạt người Derbikes,<ref>Saint Photius I (Patriarch of Constantinopolis), Nigel Guy Wilson, ''The bibliotheca: a selection'', trang 56</ref> quân Ấn Độ liên minh với người Derbikes và phái tượng binh đến giúp họ. Trận đánh diễn ra tại phía Đông Bắc thượng nguồn sông [[Syr Darya]]<ref>A history of Greece, Volume 2, By Connop Thirlwall, Longmans, 1836, p. 174</ref>, hai bên đánh nhau khốc liệt và đều hứng chịu tổn thất nặng nề. Nhờ có lực lượng tượng binh, vua Amoraios đánh thắng Hoàng đế Cyrus Đại Đế, [[Kỵ binh]] Ba Tư phải tháo chạy. Không những thua trận mà Hoàng đế Cyrus Đại Đế cũng ngã ngựa và một tên lính Ấn Độ phóng lao trúng ông, làm ông bị trọng thương. Binh sĩ Ba Tư mang ông vào trại lính, và tiếp tục chiến đấu khi có viện binh người [[Sacae]] kéo đến, tiêu diệt được vua Amoraios, hai cậu con trai cùng biết bao người Derbikes, và buộc người Derbikes phải thần phục nhà vua Ba Tư<ref name="AKurth101">Amélie Kuhrt, ''The Persian Empire'', Tập 2, trang 101</ref>. Ba ngày sau khi trúng lao và trọng thương, ông nói lời trăn trối, rồi cũng bỏ mạng.<ref>Jan P. Stronk, ''Ctesias' Persian History: Part 1: Introduction, Text, and Translation'', Phần 1, trang 317</ref><ref>Murray E. Fowler, Susan K. Mikota, ''The Asian Elephant: Ecology and Management'', trang 15</ref><ref>R. Sukumar, ''The Asian Elephant: Ecology and Management'', trang 3</ref><ref>Eneas Sweetland Dallas, ''Once a week'', Tập 10, trang 348</ref><ref>John R. Gardiner-Garden, ''Ktesias on early Central Asian history and ethnography'', trang 17</ref>
 
Từ Ấn Độ, việc sử dụng voi trong quân đội đã lan về phía Tây tới [[đế quốc Ba Tư|đế chế Ba tư]], nơi chúng được sử dụng nhiều trong các chiến dịch và lần lượt ảnh hưởng đến các chiến dịch của vua Hy Lạp [[Alexandros Đại đế|Alexandros]]. Sự chạm trán đầu tiên giữa người châu Âu và voi chiến Ba tư được ghi nhận tại [[trận Gaugamela]] (331 TCN), nơi người Ba Tư triển khai 15 voi chiến.<ref>Chinnock, p.38.</ref> Những con voi được đặt tại trung tâm của hàng ngũ của quân Ba Tư, và tạo ra một ấn tượng đối với [[Quân đội Macedonia|quân Macedonia]], mà Alexandros cảm thấy cần phải hiến tế cho vị thần của sự sợ hãi vào tối hôm trước trận đánh - nhưng theo một số nguồn cho biết, những con voi này không thể triển khai trong trận chiến vì chúng đã phải hành quân dài ngày trước đó.<ref name="Nossov, p.19">Nossov, p.19.</ref> Alexandros Đại đế đã chiến thắng vang dội tại Gaugamela, nhưng đã ấn tượng sâu sắc với nhũng con voi của kẻ thù và đã chiếm lấy 15 con voi đầu tiên này vào quân đội của mình, tiếp tục bổ sung thêm một số nữa khi đánh chiếm phần còn lại của Ba tư.
 
Vào thời điểm Alexandros tiến tới biên giới Ấn Độ 5 năm sau, ông đã có một số lượng đáng kể voi dưới quyền của mình. Khi ông đến để đánh bại [[Porus]], vua xứ [[Punjab]] của Pakistan ngày nay, Alexandros đã tự mình nhận thấy đối mặt với một lực lượng đáng kể từ 85 đến 100 con voi chiến<ref>Quintus Curtius Rufus (60-70 AD). Historiae Alexandri Magni. 8.13.6.</ref><ref>Metz Epitome. 54.</ref> tại [[trận sông Hydaspes|trận đánh sông Hydaspes]]. Alexandros đã diễn tập và tham gia chỉ với bộ binh và kị binh của ông, cuối cùng đánh bại lực lượng của Porus, bao gồm cả quân đoàn voi của ông ta, mặc dù chịu một số tổn thất. Tuy nhiên, khi tiến thêm về phía đông, Alexandros có thể thấy rằng đế[[vuơng quốc Magadha]] có thể triển khai đến 6000 voi chiến, một lực lượng lớn gấp nhiều lần số lượng phục vụ trong quân đội Ba Tư và Hy Lạp,mà đã làm nản lòng những người lính của Alexandros.<ref>[[Plutarchus|Plutarch]] (75 CE), [http://history.boisestate.edu/westciv/grecult/alexander.txt ''The Life of Alexander the Great'']</ref> Ngày trở về, Alexandros Đại đế đã thành lập một lực lượng voi để bảo vệ cung điện của mình tại Babylon, và giao phó việc lãnh đạo các đơn vị voi của mình cho một viên Quản tượng.<ref name="Nossov, p.19"/>
[[Tập tin:IRHT 126277-p.jpg|nhỏ|trái|[[Eleazar Maccabeus]] giết voi chiến và bị đè chết bởi nó (Miniaturetranh fromminh ahọa manuscripttrong sách ''[[Speculum Humanae Salvationis]]). ]]
 
Sự thành công của các lực lượng sử dụng voi tiếp tục tăng lên. Những người thừa kế đế chế của Alexandros, những Diadochi, đã sử dụng hàng trăm voi chiến Ấn Độ trong những cuộc chiến tranh của họ. trong đó [[vương quốc Seleukos]] được đặc biệt đáng chú ý vì họ đã sử dụng của các loài động vật, chủ yếu được mang đến từ Ấn Độ. Thật vậy, chiến dịch giữa Seleukos và Chandragupta Maurya (Sandrokottos), người sáng lập đế chế Maurya trong năm 305 TCN đã kết thúc với việc Seleukos nhượng một phần lãnh thổ rộng lớn phía đông để trao đổi với 500 voi chiến<ref>Fox, 2006.</ref> - là một phần nhỏ của lực lượng Maurya,trong đó bao gồm lên đến 9.000 con voi theo một số nguồn..<ref>Pliny, ''Natural History'' VI, 22.4.</ref> Seleukos đã sử dụng những con voi của mình rất tốt trong [[trận Ipsus]] bốn năm sau đó. Sau này trong lịch sử của nó, vương quốc Seleukos còn sử dụng voi chiến để đàn áp [[cuộc khởi nghĩa Maccabee|cuộc nổi dậy Maccabee]]. Các con voi đã gây ra sự sợ hãi đối với những chiến binh Do thái trang bị nhẹ.Và người trẻ nhất trong số các anh em nhà Hasmonean, [[Eleazar Maccabeus]], nổi tiếng vì đã đánh bại một trong những con tương tự trong [[trận Beth Zechariah]], đã đâm ngọn giáo vào dưới bụng một con voi mà ông ta nhầm lẫn là có vua [[Antiochos V]] nhà Seleukos, giết chết con voi với cái giá phải trả là mạng sống của mình.<ref>[[1 Maccabees]], 6:43-46.</ref>
Dòng 28:
Kể từ cuối những năm 1940 một số học giả đã cho rằng con voi rừng châu Phi được sử dụng bởi Numidia, thuộc triều đại Ptolemy và quân đội Punic đã không có tháp trong chiến đấu, có lẽ do sự yếu kém về thể chất của loài này <ref>Scullard (1948); (1974) 240-45</ref>. Có lời ghi chép đương đại rõ ràng rằng quân đội của [[Juba I của Numidia]] bao gồm voi có tháp chiến đấu trong năm 46 TCN <ref>Caesar, ''De Bello Africo'' 30.2, 41.2, 86.1.</ref> Điều này được xác nhận bởi hình ảnh của một con voi châu Phi được trang bị tháp chiến đấu sử dụng trên tiền đúc của [[Juba II]] <ref>J. Mazard, ''Corpus Nummorum Numidiae Mauretaniaeque'' (Paris 1955) 103, nº. 276, pl. 247</ref>. Điều này cũng xuất hiện trong trường hợp của quân đội Ptolemy: [[Polybius]] báo cáo rằng tại [[trận Raphia]] năm 217 TCN những con voi của Ptolemy IV mang theo tháp, những con vật nhỏ hơn so với voi châu Á của [[vương quốc Seleukos]] và voi rừng châu Phi có lẽ là như vậy <ref>Polybius v.84.2-7</ref> Có cũng có bằng chứng cho thấy con voi chiến tranh Carthage được trang bị tháp nhỏ và ghế nhỏ trên bành voi trong các ngữ cảnh quân sự nhất định.<ref>Rance (2009)</ref>
 
Dù trong quân sử vùng Địa Trung Hải, những cuộc chiến giữa quân [[Carthage]] và quân [[Cộng hòa|La Mã]] nổi tiếng hơn cả về sự tham chiến của lực lượng tượng binh, đây rõ là kết quả của việc sử dụng tượng binh của [[Ipiros (quốc gia cổ đại)|Vương quốc Ipiros]] thuộc nền văn minh Hy Lạp cổ xưa. Vua xứ Ipiros là [[Pyrros của Ipiros|Pyrros]] đích thân chinh mang 20 con voi chiến đi đánh quân La Mã trong trận đánh tại [[Trận Heraclea|Heraclea]] vào năm 280 TCN, để lại thêm năm mươi con nữa, mượn từ Pharaohvua Ai Cập [[Ptolemaios II Philadelphos|PtolemyPtolemaios II]], trên đất liền. Người La Mã đã không chuẩn bị chống lại voi chiến, và các lực lượng Hy Lạp đánh bại người La Mã. Năm sau, người Hy Lạp một lần nữa triển khai một lực lượng voi tương tự, tấn công người La Mã tại [[trận Asculum]]. Thời gian này người La Mã có sự chuẩn bị với vũ khí dễ cháy và thiết bị chống voi: đó là những cỗ chiến xa do bò kéo, trang bị giáo dài để gây tổn thương cho voi, bình chứa lửa để đe dọa chúng.
 
Lấy cảm hứng từ những chiến thắng này, [[Carthage]] đã phát triển để sử dụng riêng cho mình những con voi chiến và triển khai chúng rộng rãi trong [[Chiến tranh Punic lần thứ nhất]]. Các kết quả đã không được như mong muốn. Tại Adyss trong năm 255 TCN, những chú voi Carthage đã không hiệu quả do địa hình, trong khi tại [[trận Panormus]] trong năm 251 TCN người La Mã đã có thể khiến những con voi Carthage hoảng sợ, mà chạy trốn khỏi chiến trường. Trong [[Chiến tranh Punic lần thứ hai]], [[Hannibal]] nổi tiếng đã dẫn một đội quân voi chiến vượt dãy núi Alps - mặc dù không may là hầu hết trong số chúng thiệt mạng trong điều kiện khắc nghiệt. Người La Mã đã phát triển chiến thuật có hiệu quả chống voi chiến, dẫn đến thất bại của [[Hannibal]] tại trận chiến cuối cùng của ông ở Zama năm 202 trước Công nguyên, những con voi xung kích của ông là không hiệu quả vì người La Mã chỉ đơn giản là tách những trung đội thành những lối cho chúng vượt qua.