Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Janet Jackson”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: : → :, ; → ; (2) using AWB
Dòng 57:
Janet Jackson sinh ra tại [[Gary, Indiana]], là con út trong gia đình 10 người con của ông [[Joe Jackson (nhà quản lý)|Joseph Walter "Joe" Jackson]] và bà [[Katherine Jackson|Katherine Esther Scruse]] (nhũ danh Scurse).<ref name="JJ by Cornwell">{{harvnb|Cornwell|2002|p=2, 10, 24}}</ref> Gia đình nhà Jackson thuộc tầng lớp hạ lưu và tôn sùng giáo phái [[Nhân Chứng Giê-hô-va|Nhân chứng Jehovah]], nhưng sau đó Jackson không còn tham gia tổ chức tôn giáo này nữa.<ref>{{citation|last=Norment|first=Lynn|title=Janet: On her sexuality, spirituality, failed marriages, and lessons learned|newspaper=[[Jet (magazine)|Jet]]|volume=57|issue=1|page=104|date=November 2001|issn=0012-9011}}</ref> Lúc còn nhỏ, những người anh trai của Janet biểu diễn trong nhóm [[The Jackson 5]] tại khu vực Chicago-Gary. Tháng 3 năm 1969, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa [[Motown]] và có được những thành công đầu tiên. Gia đình họ sau đó chuyển tới khu [[Encino, Los Angeles|Encino]], Los Angeles.<ref name="JJ by Cornwell" /> Jackson ước mơ trở thành một vận động viên đua ngựa hoặc một luật sư ngành giải trí, dự định tự trang trải cho bản thân bằng nghiệp diễn xuất. Dù vậy, sau khi bước chân vào phòng thu, bà lại muốn theo đuổi sự nghiệp trong ngành giải trí.<ref name="JJ by Cornwell" /> Năm lên 7, Jackson trình diễn tại [[Dải Las Vegas]], Sòng bạc MGM.<ref name="JJ by Cornwell" /> Cha của Jackson, Joseph Jackson, ra lệnh cho bà phải gọi ông bằng tên thật thay vì "cha".<ref name="JJ by Cornwell" /> Bà bắt đầu diễn xuất trong chương trình tạp kỹ ''[[The Jacksons (chương trình truyền hình)|The Jacksons]]'' năm 1976.<ref name="JJ by Cornwell" /> Năm 1977, bà được chọn để đóng vai Penny Gordon Woods trong loạt phim hài tình huống ''[[Good Times]]''.<ref name="JJ by Cornwell" /> Bà sau đó xuất hiện trong ''[[A New Kid of Family]]'' và nhận vai Charlene Duprey trong 3 mùa ''[[Diff'rent Strokes]]''.<ref name="JJ by Cornwell" /> Jackson cũng thủ vai Cleo Hewitt trong mùa thứ tư của ''[[Fame (chương trình truyền hình 1982)|Fame]]'', mặc dù sau này bày tỏ sự thờ ơ trước chương trình này.<ref>{{Cite web | last = Fox | first = Norman | title = ''Indian Summer'' | publisher=Tv.com | url = http://www.tv.com/fame/indian-summer/episode/77620/summary.html | accessdate = September 3, 2008}}</ref><ref name="Saunders">{{Citation |last= Saunders |first= Michael | title=The 3 Divas Janet Jackson turns her focus inward | newspaper=[[The Boston Globe]] | page=D13 | date=October 3, 1996}}</ref>
 
Năm 16 tuổi, Joseph Jackson dàn xếp một bản hợp đồng giữa bà và [[A&M Records]].<ref name="JJ by Cornwell" /> Album đầu tay ''[[Janet Jackson (album)|Janet Jackson]]'' ra mắt năm 1982, do [[Angela Winbush]], [[René Moore]], Bobby Watson của nhóm [[Rufus (ban nhạc)|Rufus]] và Leon F. Sylvers III sản xuất, với sự giám sát của Joseph Jackson.<ref name="JJ by Cornwell" /> Album không được quảng bá rộng rãi, đạt vị trí thứ 63 tại [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] và hạng 6 trên bảng xếp hạng [[R&B Albums Chart]].<ref name="Billboard Album peaks">{{Cite web | title = Janet Jackson |work=[[AllMusic]] | url = {{Allmusic|class=artist|id=p4572|pure_url=yes}}|accessdate=July 21, 2010}}</ref><ref name="US-R&B-albums">{{cite web | url={{BillboardURLbyName|artist=Janet Jackson|chart=R&B/Hip-Hop Albums}} | title=Janet Jackson – Chart History: R&B/Hip-Hop Albums | work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]| accessdate=October 29, 2012}}</ref> Album phòng thu thứ hai của Jackson, ''[[Dream Street (album của Janet Jackson)|Dream Street]]'' xuất bản hai năm sau đó.<ref name="JJ by Cornwell" /> ''Dream Street'' chỉ vươn tới vị trí thứ 147 trên ''Billboard'' 200 và hạng 19 trên R&B Albums Chart.<ref name="Billboard Album peaks" /><ref name="US-R&B-albums"/> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Don't Stand Another Chance]]" leo lên hạng 9 ''Billboard''{{'}}s R&B Singles Chart.<ref name="US-R&B-singles">{{cite web | url={{BillboardURLbyName|artist=Janet Jackson|chart=R&B/Hip-Hop Songs}} | title=Janet Jackson – Chart History: R&B/Hip-Hop Songs | work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]| accessdate=April 8, 2012}}</ref> Cả hai album này chủ yếu mang dòng nhạc [[bubblegum pop]].<ref>{{cite web |url={{Allmusic|class=album|id=r10041|pure_url=yes}} |title=allmusic (((Dream Street > Overview))) |work=[[AllMusic]] |accessdate=July 21, 2010}}</ref> Jackson bí mật kết hôn với ca sĩ [[James DeBarge]] năm 1984 và ly dị sau đó không lâu, với lễ cưới bị hủy bỏ vào năm sau đó.<ref name="Smith 1996 324">{{harvnb|Smith|1996|p=324}}</ref>
 
=== 1986–88: ''Control'' ===
Dòng 71:
Đạt vị trí quán quân trên ''Billboard'' 200, album này được chứng nhận 6 lần đĩa Bạch kim bởi RIAA và tiêu thụ hơn 20 triệu bản trên toàn thế giới.<ref name="Billboard Album peaks" /><ref name="cert" /><ref>{{Cite web|author=Anderson, Kyle|work=[[Entertainment Weekly]]|url=http://www.ew.com/article/2014/09/19/janet-jackson-rhythm-nation-1814-25th-anniversary|title=Janet Jackson's 'Rhythm Nation 1814': Still dancing and dreaming 25 years later|accessdate=2016-09-26|date=19 tháng 9 năm 2014}}</ref> ''[[Rolling Stone (tạp chí)|Rolling Stone]]'' chú ý sự trưởng thành về nghệ thuật của Jackson xoay chuyển từ "sự tự do bản thân sang những vấn đề rộng rãi hơn—sự bất công, tình trạng mù chữ, tội phạm, ma tuý—mà không bỏ sót chi tiết nào."<ref>{{Cite web| last = Aletti | first = Vince | title = Rhythm Nation 1814: Janet Jackson: Review: Rolling Stone |work=Rolling Stone | date = October 19, 1998 | url = http://www.rollingstone.com/artists/janetjackson/albums/album/182747/review/5943659/rhythm_nation_1814 | accessdate = September 6, 2010 | archiveurl = https://web.archive.org/web/20080430054629/http://www.rollingstone.com/artists/janetjackson/albums/album/182747/review/5943659/rhythm_nation_1814 | archivedate = April 30, 2008}}</ref> Album được xem là "bước ngoặt trong sự nghiệp của bà", bao gồm một "tập hợp đa dạng các bài hát cùng tài năng thiên bẩm của Jackson", giúp mở rộng "phạm vi của Jackson theo mọi hướng có thể", khiến hình tượng của bà "vô cùng nữ tính, mà cũng nam tính một cách tàn bạo, mang dáng vẻ chững chạc, mà cũng rất ngây thơ."<ref name="Henderson">{{cite web|last=Henderson|first=Eric|title=Janet Jackson: Janet Jackson's Rhythm Nation 1814: Music Review|url=http://www.slantmagazine.com/music/music_review.asp?ID=1839|work=[[Slant Magazine]]|date=September 7, 2009|accessdate=November 11, 2009}}</ref> ''Rhythm Nation 1814'' lập kỷ lục khi có tới 7 đĩa đơn quán quân tại Hoa Kỳ trong ba năm dương lịch liên tiếp, bao gồm "[[Miss You Much]]", "[[Rhythm Nation]]", "[[Escapade (bài hát)|Escapade]]", "[[Alright (bài hát của Janet Jackson)|Alright]]", "[[Come Back to Me (bài hát của Janet Jackson)|Come Back to Me]]", "[[Black Cat (bài hát)|Black Cat]]" và "[[Love Will Never Do (Without You)]]".<ref name="US-singles"/><ref>{{cite web|title='Design of a Decade' Features Ten Years of Hits|url=https://books.google.com/books?id=fzkDAAAAMBAJ&pg=PA57|work=[[Jet (magazine)|Jet]]|accessdate=June 9, 2011|date=November 6, 1995}}</ref> Nổi tiếng nhờ vũ đạo và bối cảnh, video âm nhạc "Rhythm Nation" được xem là một trong những video phổ biến nhất lịch sử, với hình tượng quân lính của Jackson góp phần biến bà trở thành một biểu tượng thời trang.<ref>{{Cite web|title=The Biggest Brother-Sister Stars in Show Business History|newspaper=[[Ebony (magazine)|Ebony]]|volume=46|issue=10|page=40|issn=0012-9011}}</ref> Video "Love Will Never Do (Without You)" cho thấy Jackson lần đầu tiên chuyển sang hình tượng gợi cảm và phong cách hở bụng thường thấy của bà sau này.<ref name="jeljones"/> ''Rhythm Nation 1814'' trở thành album bán chạy nhất năm 1990, chiến thắng 15 giải thưởng ''Billboard''.<ref>{{cite web|url=http://www.tvguide.com/News/Billboard-Music-Awards-Winners-1047815.aspx |title=Adele, LMFAO Top Billboard Music Awards – Today's News: Our Take |work=TVGuide.com |date=May 21, 2012 |accessdate=December 13, 2012}}</ref><ref>{{Cite web |last=Macdonald |first=Patrick |title = Ringing In 1991: Northwest Top 10 Video Count-Down | page = 8 | newspaper=[[The Seattle Times]] | date = December 28, 1990 }}</ref><ref>{{Cite web | last1 = Anderson | first1 = Susan | title = Chronicle | page = 7 | newspaper=[[The New York Times]] | date = November 28, 1990 | isbn = 0-8118-6207-0 | issn = 0362-4331}}</ref> Video "Rhythm Nation" thắng [[giải Grammy]] ở hạng mục "Video âm nhạc dài xuất sắc nhất" năm 1989.<ref name="jeljones">{{harvnb|Halstead|Cadman|2003|p=84}}</ref>
 
[[Rhythm Nation World Tour 1990]] của Jackson trở thành chuyến lưu diễn mở màn của một nghệ sĩ thành công nhất và lập kỷ lục bán cháy vé nhanh nhất tại [[Tokyo Dome]], Nhật Bản.<ref name="jeljones"/><ref>{{harvnb|Jaynes|2005|p=565}}</ref><ref name="jeljones"/> Bà thành lập "Học bổng Rhythm Nation", gây quỹ từ chuyến lưu diễn tới nhiều chương trình giáo dục.<ref>{{Cite web|title = Janet Jackson Ends 'Rhythm Nation' Tour, Donates over $1/2 Million to Fund Education Projects | page = 56 | newspaper=[[Jet (magazine)|Jet]] |volume=79|issue=13| date = January 14, 1991|issn=0021-5996}}</ref><ref>{{Cite web |title = Janet Combines Talent and Appeal for UNCF | page = B–3 | newspaper=[[Los Angeles Sentinel]] | date = March 3, 1994|issn=0890-4340}}</ref> Khi Jackson bắt đầu lưu diễn, bà nhận ra nhiều ảnh hưởng văn hóa bắt nguồn từ âm nhạc của mình. Joel Selvin của ''[[San Francisco Chronicle]]'' viết rằng "ca sĩ 23 tuổi này đã phát hành nhiều đĩa nhạc thành công trong 4 năm, trở nên gắn bó trên MTV và là hình mẫu chính cho nhiều thiếu nữ khắp lãnh thổ" và William Allen, phó Chủ tịch của [[United Negro College Fund]] lúc đó, nhắc đến Jackson trên ''[[Los Angeles Times]]'' như là một "hình mẫu cho tất cả thanh niên và thông điệp mà cô truyền đạt tới thiếu niên khắp đất nước này thông qua lời ca của 'Rhythm Nation 1814' đang có những dấu hiệu tích cực."<ref>{{Cite web |last=Selvin |first=Joel |title = Just Wholesome Glitz From Janet | page = F1 | newspaper = [[San Francisco Chronicle]] | date = 1990-04-30 }}</ref><ref>{{Cite web |title = Names In The News Janet Jackson Benefit Concert | page = 9 | newspaper = [[Los Angeles Times]] | date = 1990-02-05 |issn=0458-3035}}</ref> Bà còn nhận một ngôi sao trên [[Đại lộ Danh vọng Hollywood]] cho những nỗ lực từ thiện và ảnh hưởng tới ngành công nghiệp thu âm.<ref>{{Cite web|title=Janet Jackson Gets Star On Hollywood Walk Of Fame|newspaper=Jet|date=1990-05-07|volume=78|issue=4|pages=60–61|issn=0021-5996}}</ref> Thành công vượt bậc của Jackson giúp bà đứng ngang hàng với [[Michael Jackson]], [[Madonna (entertainer)|Madonna]] và [[Tina Turner]].<ref name="Routledge">{{harvnb|Kramarae|Spender|2000|p=1408}}</ref> Tạp chí ''[[Ebony (tạp chí)|Ebony]]'' ghi nhận: "Chưa một cá nhân hay tập thể nào gây ảnh hưởng tới thế giới giải trí như Michael và Janet Jackson," cho rằng dù có nhiều thế hệ tiếp sau, chỉ có vài người có thể vượt qua "phong cách và sự khéo léo đáng kinh ngạc" của Jackson.<ref name="multimillion" /> Sau khi hoàn tất hợp đồng với hãng A&M Records năm 1991, bà ký kết một hợp đồng trị giá từ 32 tới 50 triệu đô-la Mỹ với [[Virgin Records]], giúp bà trở thành nghệ sĩ thu âm được trả thù lao cao nhất thời điểm trên,<ref name="multimillion">{{Cite web|title=The Biggest Brother-Sister Stars in Show Business History|newspaper=[[Ebony (magazine)|Ebony]]|volume=46|issue=10|date=1991|page=40|issn=0012-9011}}</ref><ref name="virgin contract">{{Cite web | last1 = Goldberg | first1 = M. | title = The Jacksons score big | page = 32 | newspaper=Rolling Stone | date = May 2, 1991 | issn = 0035-791X}}</ref> với danh tiếng của một "Nữ hoàng nhạc Pop."<ref name="Queen" /> Năm 1992, Jackson góp giọng trong ca khúc "[[The Best Things in Life Are Free]]" của [[Luther Vandross]], lọt vào top 10 ''Billboard'' và nhiều quốc gia trên thế giới.<ref name="influence"/>
 
=== 1993–96: ''janet.'', ''Poetic Justice'' và ''Design of a Decade'' ===
Album phòng thu thứ năm của Jackson, ''[[Janet (album)|janet.]]'' (1993) mở màn ở vị trí quán quân trên ''Billboard''&nbsp;200, giúp bà là nữ nghệ sĩ đầu tiên lập thành tích này trong kỷ nguyên [[Nielsen SoundScan]].<ref name="Billboard Album peaks" /><ref>{{cite news|url=https://books.google.com/?id=xwsEAAAAMBAJ&pg=PA3&vq=janet+jackson |title=Between The Bullets |first=Geoff |last=Mayfield |work=[[Billboard (magazine)|Billboard]] |accessdate=July 28, 2010 |date=August 5, 1995}}</ref> Album có 6 lần chứng nhận Bạch kim bởi RIAA và tiêu thụ hơn 20 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="cert" /><ref>{{cite news |url=http://www.abc.net.au/news/stories/2008/01/22/2143685.htm |title=Janet Jackson set for return to form |work=[[ABC|ABC News]] |date=January 22, 2008|accessdate=May 5, 2009}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên, "[[That's the Way Love Goes]]" thắng giải Grammy cho "Bài hát R&B xuất sắc nhất" và đứng đầu Hot 100 trong 8 tuần liên tiếp.<ref name="Jacksons Number Ones">{{harvnb|Halstead|Cadman|2003}}</ref>{{rp|118}} "[[Again (bài hát của Janet Jackson)|Again]]" tiếp tục dẫn đầu trong 3 tuần, trong khi "[[If (bài hát của Janet Jackson)|If]]" và "[[Any Time, Any Place]]" leo lên top 4. "[[Because of Love]]" và "[[You Want This]]" xuất hiện trong top 10.<ref name="US-singles"/>
 
Album này thể nghiệm nhiều thể loại đa dạng, bao gồm [[R&B đương đại]], [[deep house]], [[jazz|swing jazz]], [[hip hop]], [[rock]] và [[pop]], "được mang tới bằng kỹ năng và đam mê tột bậc", theo lời miêu tả của ''Billboard''.<ref name="jeljones"/><ref>{{cite news|author1=Paul Verna |author2=Chris Morris |author3=Edward Morris |title=Pop/Spotlight|newspaper=Billboard|date=May 23, 1993|page=91}}</ref><ref name="jeljones"/> Jackson đảm nhận vai trò sáng tác và sản xuất nhiều hơn những album trước, giải thích rằng bà cảm thấy cần thiết phải "viết tất cả lời nhạc và phân nửa giai điệu", cũng như phát biểu thẳng thắn về tính gợi dục trong album.<ref name="Sexual Healing" /> ''[[Rolling Stone (tạp chí)|Rolling Stone]]'' viết, "là một công chúa trong gia đình da màu hoàng gia của nước Mỹ, mọi thứ Janet Jackson thực hiện đều quan trọng. Lúc khẳng định chịu trách nhiệm về cuộc sống, như trong ''Control'' (1986), hay chỉ huy một đoàn lính nhảy múa để chống trả nhiều vấn đề của xã hội (''Rhythm Nation 1814'', 1989), cô ấy vẫn gây ảnh hưởng. Và khi thông báo về sự trưởng thành tình dục, như trong album mới ''janet.'', đó chính xác là một khoảnh khắc văn hóa."<ref>{{cite web|edition=659|url=http://www.rollingstone.com/artists/janetjackson/albums/album/182126/review/6067467/janet |title=Janet Jackson: Janet: Music Reviews |work=Rolling Stone |accessdate=September 9, 2010 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20080502093343/http://www.rollingstone.com/artists/janetjackson/albums/album/182126/review/6067467/janet |archivedate=May 2, 2008}}</ref>
 
[[File:Janet Tour 01.jpg|thumb|left|230px|Jackson trình diễn trong [[Janet World Tour]], kéo dài từ năm 1993–95]]
Dòng 131:
===2008–09: ''Discipline'' và ''Number Ones''===
[[File:Janet Jackson 4.jpg|180px|thumb|Jackson trình diễn trong [[Rock Witchu Tour]]]]
Jackson ký hợp đồng với [[Island Records]] sau khi hoàn thành nghĩa vụ với hãng Virgin. Bà hoãn kế hoạch lưu diễn và bắt đầu hợp tác với nhiều nhà sản xuất, bao gồm [[Rodney "Darkchild" Jerkins]], [[Tricky Stewart]] và [[Stargate (nhóm sản xuất)|Stargate]].<ref>{{Cite web | title = Janet Jackson Sets Sights On Fall Tour, Book – Billboard | publisher= Billboard | date = July 3, 2008 |author=Graff, Gary| url = http://www.billboard.com/articles/news/1046327/janet-jackson-sets-sights-on-fall-tour-book | accessdate = February 7, 2014}}</ref> Album phòng thu thứ 10, ''[[Discipline (album của Janet Jackson)|Discipline]]'' phát hành vào tháng 2 năm 2008, mở đầu tại ngôi quán quân.<ref name="Billboard Album peaks" /> Dù bị hạn chế trên sóng phát thanh, đĩa đơn đầu tiên "[[Feedback (bài hát)|Feedback]]" đạt hạng 19 trên Hot&nbsp;100 và hạng 9 trên [[Pop Songs]], lần xếp hạng cao nhất của bà kể từ "[[Someone to Call My Lover]]".<ref name="US-singles"/><ref name="pop-singles">{{cite web | url={{BillboardURLbyName|artist=Janet Jackson|chart=Pop Songs}} | title=Janet Jackson – Chart History: Pop Songs | work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]| accessdate=April 8, 2012}}</ref><ref name="US-singles"/> Jackson thắng "Giải Vanguard" tại lễ trao giải GLAAD Media, vinh danh những đóng góp của bà trong việc quảng bá quyền bình đẳng trong cộng đồng người đồng tính.<ref name=gladd /> Chuyến lưu diễn thứ năm của Jackson, [[Rock Witchu Tour]], khởi động vào tháng 9 năm 2008.<ref>{{Cite web | last = Harrington | first = Jim | title = Review: The hits kept coming at Janet Jackson's Oakland show | newspaper=[[Oakland Tribune]] | date = September 14, 2008| issn = 1068-5936}}</ref> Jackson rời khỏi Island Records qua thỏa thuận hai bên. ''Billboard'' tiết lộ rằng Jackson không hài lòng với khả năng quản lý và quảng bá album của [[LA Reid]], "hãng đồng ý chấm dứt hợp đồng theo ý nguyện của ca sĩ."<ref name="Concepcion">{{Cite web|first=Mariel |last=Concepcion |url=http://www.billboard.com/articles/news/1044010/janet-jackson-parts-ways-with-island-def-jam |title=Janet Jackson Parts Ways With Island Def Jam |work=Billboard |accessdate=September 22, 2008|date=22 tháng 9 năm 2008}}</ref><ref>{{cite web |url=http://new.music.yahoo.com/blogs/chart_watch/51507/week-ending-april-11-2010-bieber-bounces-back/ |title=Week Ending April 11, 2010: Bieber Bounces Back |work=Yahoo|author=Grein, Paul |date= April 14, 2010 |accessdate=May 16, 2010|archiveurl=https://web.archive.org/web/20100418040414/http://new.music.yahoo.com/blogs/chart_watch/51507/week-ending-april-11-2010-bieber-bounces-back|archivedate=18 tháng 4 năm 2010}}</ref><ref>{{Cite web|title=Janet Jackson splits with record label|url=http://www.nme.com/news/janet-jackson/39889|newspaper=[[NME]]|date=September 20, 2008|accessdate=October 8, 2009}}</ref>
 
Tháng 6 năm 2009, người anh trai Michael qua đời ở tuổi 50. Bà phát biểu về vụ việc tại [[giải BET]] 2009, khẳng định "Michael đối với các bạn là một biểu tượng, đối với chúng tôi anh ấy còn là người nhà. Và anh ấy sẽ luôn sống trong tim chúng ta. Đại diện cho gia đình, xin cảm ơn tình cảm và sự ủng hộ của mọi người. Chúng tôi nhớ anh ấy rất nhiều."<ref>{{Cite web|last=Carter|first=Kelley|title=An emotional Janet Jackson thanks fans at BET Awards|newspaper=USA Today|url=http://www.usatoday.com/life/people/2009-06-29-bet-awards-jackson_N.htm?csp=34|date=June 28, 2009|accessdate=June 28, 2009}}</ref> Trong một bài phỏng vấn, bà tiết lộ mình biết tin dữ lúc ghi hình ''[[Why Did I Get Married Too?]]''. Giữa lúc đau buồn với gia đình, bà lại tập trung làm việc và tránh mọi tin tức về cái chết của anh trai. Bà chia sẻ "đối mặt với sự thật vẫn là điều quan trọng, tôi không trốn tránh, nhưng đôi lúc ta cần phải dừng lại một phút."<ref name="HB">{{Cite web|last=Brown|first=Laura|title=Janet Jackson Takes Control|newspaper=[[Harper's Bazaar]]|page=244|date=October 2009|issn=0017-7873}}</ref> Trong thời gian này, bà kết thúc mối tình 7 năm với Jermaine Dupri.<ref name="HB" /> Vài tháng sau, Jackson trình diễn "Scream" để tưởng nhớ Michael tại [[giải Video âm nhạc của MTV năm 2009]].<ref>{{Cite web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1621392/20090913/madonna.jhtml|title=VMAs Kick Off with Madonna and Janet's Tribute to Michael Jackson|last=Kaufman|first=Gil|date=September 13, 2009|work=MTV News|accessdate=September 14, 2009}}</ref> MTV khẳng định "không ai khác ngoài Janet có thể cất giọng và gửi một thông điệp mạnh mẽ."<ref name="SF">{{Cite web|last=Kinon|first=Cristina|title=Janet Jackson to do dance tribute for Michael to kick off VMAs|newspaper=Daily News|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/tv/2009/09/11/2009-09-11_janet_jackson_to_do_dance_tribute_for_michael_to_kick_off_vmas.html|date=September 11, 2009|accessdate=September 19, 2009|location=New York}}</ref> Màn trình diễn được giới phê bình khen ngợi; ''[[Entertainment Weekly]]'' gọi liên khúc này "đầy năng lượng mà cũng thật cảm động".<ref>{{Cite web|last=Slezak|first=Michael|title=Janet Jackson single-handedly saves MTV VMA tribute to Michael Jackson|url=http://music-mix.ew.com/2009/09/14/janet-jackson-michael-jackson-vmas-2009|date=September 13, 2009|newspaper=Entertainment Weekly|accessdate=September 16, 2009}}</ref>
Dòng 166:
Âm nhạc của Jackson bao gồm nhiều thể loại khác nhau. Các đĩa nhạc thập niên 1980 của bà được cho là lấy cảm hứng từ [[Prince (nhạc sĩ)|Prince]], với đội ngũ sản xuất là cựu thành viên của nhóm [[The Time (ban nhạc)|The Time]].<ref>{{Cite web|last=Pareles|first=Jon|title=Pop and Jazz Guide|pages=C.23|newspaper=[[The New York Times]]|date=April 25, 1986|issn=0362-4331}}</ref> Sal Cinquemani viết rằng ngoài việc thống trị sóng phát thanh [[Top 40]], bà còn "tăng thêm nét nữ tính đặc trưng cho thể loại [[Minneapolis sound]] của Prince—và, những bài hát như 'What Have You Done for Me Lately?,' 'Nasty,' 'Control' và 'Let's Wait Awhile' chính là sự nhấn mạnh của [[chủ nghĩa nữ giới]]."<ref name="SCNO">{{Cite web|last=Cinquemani|first=Sal|title=Janet Jackson: Number Ones |url=http://www.slantmagazine.com/music/music_review.asp?ID=1921 |publisher=[[Slant Magazine]]|date=November 19, 2009 |accessdate=November 19, 2009}}</ref> Trong ''Control'', Richard J. Ripani ghi nhận Jackson, Jam và Lewis đã "tạo nên âm thanh mới, hòa trộn những yếu tố nhịp điệu funk và disco, cùng với [[đàn synthesizer]], bộ gõ, hiệu ứng âm thanh và sự nhạy cảm nhạc rap ở tần suất cao."<ref name="The New Blue Music" /> Tác giả [[Rickey Vincent]] khẳng định bà thường xuyên được nhắc tới vì đã xác định lại tiêu chuẩn của dòng nhạc đại chúng với nhịp độ [[nhạc công nghiệp]] trong album này.<ref name="Vincent">{{harvnb|Vincent|Clinton|1996|p=272, 284}}</ref> Jackson còn là người tạo xu hướng trong thể loại [[pop ballad]]; Richard Rischar có viết "dòng nhạc pop ballad da màu giữa thập niên 1980 bị ảnh hưởng bởi lối xử lý, trình diễn nhịp nhàng và tinh tế, dẫn đầu là những ca sĩ như Whitney Houston, Janet Jackson và [[James Ingram]]."<ref>{{harvnb|Rischar|2004|p=408}}</ref> Bà tiếp tục phát triển âm nhạc bằng cách dung hòa thể loại pop và urban, với những yếu tố hip-hop trong những năm 90. Điều này bao gồm biểu diễn tiết chế hơn, kết hợp những bản ballad nhẹ nhàng và nhịp dance sôi động.<ref>{{harvnb|Miller|2008|p=205}}</ref> Trong thập kỷ sự nghiệp đầu tiên, bà được xem là "nghệ sĩ định hình nên âm thanh và hình tượng của [[rhythm and blues]]".<ref>{{Cite web|author=Greg Kot|title=Fighting Another Grammy Whammy 'Janet' Producers Defend Jackson's Role|newspaper=Chicago Tribune|date=February 28, 1994|page=5|issn=1085-6706}}</ref> Nhà phê bình Karla Peterson gọi bà là "một vũ công nhạy bén, một người trình diễn hấp dẫn và 'That's the Way Love Goes' chứng tỏ bà là một nhạc sĩ pop tài ba."<ref name="Peterson">{{Cite web|author=Karla Peterson|title=Pop goes Janet in concert full of programmed flash|newspaper=[[U-T San Diego]]|date=February 26, 1994|page=E.6}}</ref> Nhiều tác phẩm trong những thập kỷ sau này của bà không còn được đón nhận như trước; Sal Cinquemani bình luận: "ngoại trừ [[R.E.M.]], không cựu ngôi sao nào có cú trở lại hoành tráng, với sức sáng tạo và diễn biến thương mại giảm sút tới vậy."<ref name="SCNO" />
 
Jackson thay đổi chủ đề ca từ trong nhiều năm, trở thành trọng tâm phân tích trong [[âm nhạc học]], nghiên cứu tầng lớp Mỹ Phi và [[giới tính học]].<ref>{{harvnb| name="Smith| 1996|p= 324}}<"/ref><ref name="TSR">{{harvnb|Reynolds|Press|1996|p=297}}</ref> David Ritz so sánh phong cách âm nhạc của Jackson với [[Marvin Gaye]], "giống như Marvin, tính tự truyện dường như là nguồn gốc chính trong âm nhạc của bà. Nghệ thuật của bà, cũng giống như Marvin, nổi lên giữa biển đau thương thầm kín."<ref name="Sex, sadness & the triumph of Janet Jackson" /> Hầu hết thành công của bà xuất phát từ "hàng loạt nhịp điệu groove mạnh mẽ, chắc chắn; chất giọng tươi vui, đa dạng; và lời ca đậm chất triết lý dựa trên sự tự hào và tự nhận thức."<ref>{{Cite web|last=MacCambridge|first=Michael|title=Worth a note|newspaper=[[Austin American-Statesman]]|page=G.2|date=October 19, 1989}}</ref> Ritz còn khẳng định, "Điều bí ẩn chính là ngọn lửa ngầm cháy quanh tâm hồn của Janet Jackson. Ngọn lửa thiêu đốt những yếu tố nhiên liệu quan trọng nhất: sự sinh tồn và tham vọng, tính thận trọng và sức sáng tạo, sự tự tin ngút trời và nỗi sợ thăm thẳm."<ref name="Sex, sadness & the triumph of Janet Jackson" /> Trong thập niên 1980, lời ca của bà thể hiện tính tự hiện thực, nguyên tắc nữ quyền và tư tưởng chính trị.<ref name="TSR" /><ref name="Lilly">{{harvnb|Goren|2009|p=61}}</ref> Gillian G. Gaar, tác giả cuốn ''She's a Rebel: The History of Women in Rock & Roll'' (2002), mô tả ''Control'' là "một câu chuyện tự truyện kể về cuộc đời của bà với cha mẹ, cuộc hôn nhân đầu tiên và sự giải thoát."<ref name="She's a rebel" /> Jessie Carney Smith trong ''Encyclopedia of African American Popular Culture'' (2010) có viết "với album này, bà thổi vào sự tự tin, tính độc đáo và sức mạnh cá nhân. Bà thử thách khán giả bằng cách thay đổi chính mình, từ một nhân vật ngây thơ sang một ngôi sao trưởng thành, đa tài."<ref name="EAAPC">{{harvnb|Smith|2010|p=738, 739}}</ref> Nhắc tới ''Rhythm Nation 1814'' như một hiện thân của hy vọng, Timothy E. Scheurer trong ''Born in the USA: The Myth of America in Popular Music from Colonial Times to the Present'' (2007) có viết, "Nó nhắc nhở gia đình nhà [[Sly Stone]] thời kỳ trước ''[[There's a Riot Goin' On]]'' và nhiều nghệ sĩ Mỹ Phi khác của thập niên 1970 rằng cái thế giới mà [[Martin Luther King, Jr.|Dr. King]] tưởng tượng vẫn còn khả thi, rằng [[Giấc mơ Mỹ]] chính là mơ ước cho mọi người."<ref>{{harvnb|Scheurer|2007|p= 224}}</ref>
 
Trong ''Janet'', Jackson bắt đầu tập trung vào chủ đề tình dục. Shayne Lee, tác giả của ''Erotic Revolutionaries: Black Women, Sexuality, and Popular Culture'' (2010), viết rằng âm nhạc trong một thập kỷ kế đến "đánh bóng thương hiệu của bà như một trong những giọng ca gợi dục nhất thập niên 1990."<ref name="ER">{{harvnb|Lee|2010|p=12–16}}</ref> Trong ''You've Come A Long Way, Baby: Women, Politics, and Popular Culture'' (1996), Lilly J. Goren nhận thấy "sự phát triển của Jackson từ một nhạc sĩ hát về xã hội cho tới hình tượng diva gợi cảm đánh dấu định hướng mà xã hội và ngành công nghiệp âm nhạc muốn những diva dance-rock theo đuổi."<ref name="Lilly" /> ''[[The Washington Post]]'' tuyên bố hình tượng công chúng của Jackson trong những giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp đã thay đổi, "từ sự ngây thơ thành từng trải, làm cảm hứng cho những album gợi cảm như ''Janet'' năm 1993 và ''The Velvet Rope'' năm 1997, khám phá sự gắn kết—theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen—của tình yêu và dục vọng."<ref name="Klein">{{Cite web| last= Klein| first=Joshua | title=Janet Jackson's Lighthearted Lament About Lost Love | newspaper=[[The Washington Post]] | page= C01 | date=April 25, 2001}}</ref> Bài hát "Free Xone" từ ''The Velvet Rope'', lột tả mối quan hệ đồng giới theo hướng tích cực, được nhà xã hội học Shayne Lee miêu tả là "một sự kiện hiếm có, khi một giọng ca da màu nổi tiếng khám phá năng lượng lãng mạn hoặc gợi dục bên ngoài phạm vi [[tình dục dị tính]], một bước ngoặt lớn trong cuộc [[chính trị tình dục]] da màu."<ref name="ER" /> Khi quảng bá ''Janet'', bà khẳng định "Tôi thích cảm giác đắm mình trong dục vọng—mà không màng tới sự đời. Với tôi, tình dục trở thành sự ăn mừng, một phần hân hoan trong quá trình sáng tạo."<ref name="Sexual Healing" /> Từ khi phát hành ''Damita Jo'', Jackon khẳng định "Từ những album đầu tiên, khám phá—và giải phóng—bản năng giới tính luôn là sự tìm tòi và chủ đề liên tục của tôi" và nói thêm "Là một nghệ sĩ, đó không chỉ là đam mê, mà còn là bổn phận của tôi".<ref name=upscale>{{harvnb|Ritz|2004|p=64}}</ref> Stephen Thomas Erlewine cảm thấy sự đề cập không ngừng nghỉ tới tình dục của Jackson trong âm nhạc thiếu tính sáng tạo, đặc biệt khi so sánh tới những nghệ sĩ như Prince, khẳng định "trong lúc tình dục xúc tác rất nhiều cho dòng nhạc pop, đó không phải là một chủ đề lôi cuốn—giống như mọi thứ khác, tất cả đều phụ thuộc vào người nghệ sĩ."<ref name="STE">{{Cite web|last=Erlewine |first=Stephen Thomas | title = ''Damita Jo'' |publisher=Allmusic | year = 2004| url = {{Allmusic|class=album|id=r680820|pure_url=yes}} | accessdate = February 8, 2009}}</ref>
Dòng 174:
Các video âm nhạc và màn trình diễn của Jackson lấy cảm hứng từ những vở nhạc kịch mà bà xem lúc nhỏ, bị ảnh hưởng lớn bởi vũ đạo của [[Fred Astaire]] và [[Michael Kidd]] và nhiều nhân vật khác.<ref name="Envisioning">{{harvnb|Mitoma|2002|p=16}}</ref> Trong sự nghiệp, bà đã hợp tác và giới thiệu nhiều biên đạo múa chuyên nghiệp, như [[Tina Landon]], [[Paula Abdul]] và Michael Kidd.<ref>{{harvnb|Jenai|2003|p=14–16}}</ref> Veronica Chambers khẳng định "sự ảnh hưởng của bà đến dòng nhạc pop là không thể phủ nhận và bao phủ rộng rãi." Chambers nhận thấy nhiều video của nghệ sĩ khác "không chỉ sử dụng vũ công của Jackson mà vũ đạo và bối cảnh còn có nhiều điểm tương đồng với bà."<ref>{{cite news|title=She's Not Anybody's Baby Sister Anymore|work=[[The New York Times]]|author=Chambers, Veronica|url=http://www.nytimes.com/1997/09/07/arts/she-s-not-anybody-s-baby-sister-anymore.html|date=September 7, 1997|accessdate=March 7, 2014}}</ref> Janine Coveney của ''Billboard'' cho rằng "sự tuyên bố độc lập về âm nhạc của Jackson [trong ''Control''] cho thấy hàng loạt những bài hát ăn khách, sản xuất âm thanh khó phai mờ và hình tượng bền bỉ về vũ đạo và hình ảnh video mà những giọng ca pop vẫn còn tái sử dụng."<ref name="Janet's Juggernaut" /> Ben Hogwood của ''[[MusicOMH]]'' khen ngợi "nguồn ảnh hưởng lớn mà bà truyền đạt tới thế hệ sau", đặc biệt ở [[Britney Spears]], [[Jennifer Lopez]] và [[Christina Aguilera]].<ref>{{cite web|url=http://www.musicomh.com/music/dvds/janet-jackson.htm |title=Janet Jackson – From Janet. To Damita Jo: The Videos – music DVD reviews – musicOMH |work=MusicOMH |publisher=Hogwood, Ben |year=2004 |accessdate=December 25, 2013 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130513191906/http://www.musicomh.com/music/dvds/janet-jackson.htm |archivedate=May 13, 2013 }}</ref> Qadree EI-Amin cho rằng nhiều nghệ sĩ pop "thêu dệt những màn trình diễn theo cá tính dance-diva của Janet."<ref name="crossroads">{{Citation | last1 = Norment | first1 = Lynn | title = Janet: At the crossroads | volume = 56 | issue = 1 | page = 180 | newspaper=Ebony | date = November 1, 2000 | issn = 0012-9011}}</ref>
 
Beretta E. Smith-Shomade, tác giả ''Shaded Lives: African-American Women and Television'' (2002), viết rằng "ảnh hưởng của Jackson tới những video âm nhạc phần lớn nhờ vào thành công doanh số âm nhạc, cho phép bà mở rộng sự kiểm soát và tự do trong hình ảnh. Sự kiểm soát này ảnh hưởng trực tiếp tới hình ảnh và nội dung của video, giúp bà nổi bật giữa nhiều nhóm nghệ sĩ giả định khác—nam giới hay nữ giới, da trắng hay da màu."<ref name="Beretta">{{harvnb|Smith-Shomade|2002|p=86}}</ref> ''Parallel Lines: Media Representations of Dance'' (1993) nghiên cứu những video của bà thường gợi nhớ lại về những buổi hòa nhạc trực tiếp hay nhà hát kịch công phu.<ref name="PL">{{harvnb|Jordan|Allen|1993|p=68}}</ref> Dù vậy, trong ''Rhythm Nation 1814'' dài 30 phút, Jackson sử dụng kỹ thuật vũ đạo đường phố, tương phản với vũ đạo truyền thống.<ref name="PL" /> Hình ảnh nhóm vũ công đầy năng lượng tượng trưng cho quyền bình đẳng giới tính, lúc Jackson "trình diễn vô tính và vô danh ở phía trước nhưng hòa vào các vũ công."<ref>{{harvnb|Järviluoma|Moisala|Vilkko|2003|p=92}}</ref> Những video âm nhạc của bà còn góp phần đẩy cao mức độ tự do tính dục của tầng lớp phụ nữ trẻ, như lời của Jean M. Twenge trong ''Generation Me: Why Today's Young Americans are More Confident, Assertive, Entitled—and More Miserable Than Ever Before'' (2007), Jackson "nhiều lần ám chỉ tới [[tình dục đường miệng]] trong những video âm nhạc bằng hành động đẩy [[đầu]] của đàn ông xuống đúng vị trí", gây nên sự "thúc đẩy trào lưu" tình dục giữa các video của nữ ca sĩ và giới nữ trẻ.<ref>{{harvnb|Twenge|2007|p=167}}</ref> Dù vậy, những cáo buộc về giải phẫu thẩm mỹ, tẩy trắng da và hình tượng gợi dục quá đà khiến bà bị xem là sản phẩm của quan điểm tình dục nam giới da trắng, hơn là sự giải phóng của bản thân hoặc những người khác.<ref name="Beretta" /> Jackson nhận [[giải MTV Video Vanguard]] cho những đóng góp tới thể loại nghệ thuật này và trở thành người đầu tiên được [[MTV Icon]] tri ân những ảnh hưởng tới ngành công nghiệp âm nhạc. Năm 2003, ''[[Slant Magazine]]'' xếp "Rhythm Nation" và "Got 'til It's Gone" trong "100 Video âm nhạc vĩ đại nhất".<ref>{{cite web|author=Sal Cinquemani and Ed Gonzalez|title=100 Greatest Music Videos|url=http://www.slantmagazine.com/music/feature/100-greatest-music-videos/205/page_10|publisher=Slant Magazine|date=June 30, 2003|accessdate=March 9, 2012}}</ref> Năm 2011, "Rhythm Nation" được ''Billboard'' bình chọn là video xuất sắc thứ 10 trong thập niên 1980.<ref>{{cite web|url=http://www.billboard.com/articles/news/468693/the-10-best-80s-music-videos-poll-results|title=The 10 Best '80s Music Videos: Poll Results|last=Letkemann|first=Jessica|work=Billboard|publisher=Prometheus Global Media|date=August 1, 2011|accessdate=August 1, 2011}}</ref>
 
Nicholas Barber của ''The Independent'' khẳng định "Đêm nhạc của janet như bộ phim bom tấn hè của dòng nhạc pop, với tất cả vụ nổ, hiệu ứng đặc biệt."<ref name="Glasgow">{{cite web |last=Barber | first=Nicholas | title=Rock music: Janet Jackson gets lost in her own limelight | newspaper=[[The Independent]] | page=6 | date=June 7, 1998}}</ref> Tạp chí ''Jet'' báo cáo "tiết mục sân khấu lưu diễn sáng tạo của Janet đã giúp bà nổi tiếng như một nghệ sĩ trình diễn đẳng cấp thế giới."<ref>{{cite web|title=Janet Jackson receives American Music Awards' Top Honor Highlighting Stellar Career|newspaper=Jet|volume=99|issue=7|date=January 29, 2001|page=56|issn=0021-5996}}</ref> Chris Willman của ''Los Angeles Times'' mô tả vũ đạo trong Rhythm Nation 1814 Tour là "một hỗn hợp những động tác giật cứng nhắc và uyển chuyển một cách duyên dáng."<ref name="Chris Willman">{{cite web| last1 = Willman | first1 = Chris | title = Pop Music Review Janet Jackson's Dance of Community| page = 1 | newspaper=Los Angeles Times | date = April 23, 1990 | issn = 0458-3035}}</ref> Number Ones: Up Close and Personal chuyển sang bối cảnh nhà hát nhỏ, khác với những kết cấu sân khấu hoành tráng của bà trước đây. Nhiều nhà phê bình nhận thấy điều này không ảnh hưởng tới màn trình diễn của bà, mà còn cộng hưởng thêm. Greg Kot của ''[[Chicago Tribune]]'' viết "Trong những chuyến lưu diễn trước, chất giọng mỏng manh của Jackson thường bị sức dàn dựng lớn của đêm diễn nuốt chửng&nbsp;... Trong bối cảnh đơn giản hơn, Jackson mang tới sự ấm áp và chân thành không phải lúc nào cũng hiện hữu tại nhiều sân vân động."<ref>{{cite web|author=Glenn Gamboa|title=The magnificent 7 Our critic's take on Janet Jackson's top hits before her musical comeback|newspaper=[[Newsday]]|date=March 18, 2011|page=B.15}}</ref>
Dòng 188:
Nhà âm nhạc học Richard J. Ripani nhận dạng Jackson như người dẫn đầu trong phong trào phát triển dòng nhạc R&B đương đại, hòa quyện độc đáo giữa các thể loại và hiệu ứng âm thanh, mở ra chất giọng rap trong âm nhạc R&B chủ đạo.<ref name="The New Blue Music" /> Ông còn cho rằng [[bài hát trứ danh]] "Nasty" của bà còn gây ảnh hưởng tới thể loại new jack swing, do [[Teddy Riley (nhà sản xuất)|Teddy Riley]] phát triển.<ref name="The New Blue Music" /> Leon McDermott của ''[[Sunday Herald]]'' viết: "Các album bán triệu bản của bà trong những năm 1980 giúp hồi sinh R&B đương đại thông qua lối xử lý chắc chắn của Jimmy Jam và Terry Lewis; nhịp điệu groove len lỏi trong ''Control'' năm 1986 và ''Rhythm Nation 1814'' năm 1989 là nền tảng chính cho nhiều nhà sản xuất và ca sĩ ngày nay noi theo."<ref>{{cite web| last= McDermott | first= Leon | title= Going bust?; Damita Jo ought to have been Janet Jackson's big comeback album, says Leon McDermott, but after that incident at the Super Bowl will America forgive her? | newspaper=Sunday Herald | page=3 | date= March 28, 2004}}</ref> Trong ''Bring the Noise: 20 Years of Writing About Hip Rock and Hip Hop'' (2011), [[Simon Reynolds]] mô tả sự hợp tác của Jackson và những nhà sản xuất thu âm như sự tái sáng tạo của thể loại dance-pop.<ref name="Reynolds">{{harvnb|Reynolds|2011|p=226}}</ref> Den Berry, chủ tịch và giám đốc điều hành hãng Virgin Records khẳng định: "Janet là hiện thân chính xác nhất của một siêu sao toàn cầu. Sức sáng tạo nghệ thuật và cá nhân của bà vượt qua giới hạn địa lý, văn hóa và thế hệ."<ref>{{cite web|title=Janet Jackson Renews Contract With Virgin Records For Blockbuster Deal|newspaper=Jet|volume=89|issue=13|page=35|issn=0021-5996}}</ref>
 
Âm nhạc và vũ đạo của Jackson là niềm cảm hứng tới nhiều nghệ sĩ khác. Nhà điều hành Lee Trink từ hãng Virgin Records chia sẻ: "Janet là một biểu tượng lịch sử trong văn hóa chúng ta. Bà là một trong những nghệ sĩ tài năng mà mọi người noi theo, tái hiện lại và đặt lòng tin tưởng&nbsp;... chẳng mấy siêu sao như thế lại có thể vượt qua thử thách của thời gian."<ref name="Janet's Juggernaut" /> Sarah Rodman của ''[[Boston Herald]]'' gọi Britney Spears, [[Aaliyah]] và [[Destiny's Child]] thừa nhận những "nhịp điệu groove và vũ điệu tuyệt vời" của Jackson.<ref name="divawings">{{cite web| last= Rodman | first=Sarah | title= Music; Has Janet Jackson earned her diva wings?; Two FleetCenter shows are just one criterion | newspaper=[[Boston Herald]] | page=S03 | date= August 24, 2001}}</ref> Nhà phê bình âm nhạc Gene Stout bình luận rằng bà "ảnh hưởng tới một lượng lớn thế hệ trình diễn sau này, từ [[Jennifer Lopez]]&nbsp;... đến Britney Spears, những người thường bắt chước động tác của Jackson."<ref>{{cite web|last=Stout|first=Gene|title=Janet Jackson's Steamy Album Leaves Room For Romance|newspaper=Seattle Post-Intelligencer|page=8|date=July 16, 2001|issn=0745-970X}}</ref> [['N Sync]] và [[Usher (ca sĩ)|Usher]] nhắc tới bà như là người truyền đạt kỹ năng diễn xuất lên sân khấu trực tiếp.<ref>{{cite web|last=Valdéz|first=Mimi|title=Show and prove|newspaper=Vibe|volume=9|issue=8|page=116|date=August 2001|issn=1070-4701}}</ref><ref>{{harvnb|Nickson|2005|p=39}}</ref> [[Beyoncé Knowles]],<ref>{{cite web| last= Murray | first=Sonia | title= Janet & Beyonce: Rivals or not, the stars share surprising similarities | newspaper=The Atlanta Journal and Constitution | page=F.1 | date= August 18, 2006|issn=1539-7459}}</ref> [[Toni Braxton]],<ref>{{cite web|author=Michael A. Gonzales|title=Toni's Secret|newspaper=Vibe|volume=5|issue=5|date=July 1997|page=92|issn=1070-4701}}</ref> Aaliyah,<ref name="Aaliyah">{{harvnb|Sutherland|2005|p= 9}}</ref> Britney Spears,<ref>{{cite web|author=Mark Brown|title=In Her Own Words ; What's a Critic To Do When Britney Says it All?|newspaper=Rocky Mountain News|date=November 12, 2001|page=8.D}}</ref> [[Christina Aguilera]],<ref>{{harvnb|Dominguez|2003|p=26}}</ref> [[Crystal Kay]],<ref>{{cite web|title=Now Hear This Yokohama-based teen pop singer among the promising|newspaper=Asahi Evening News|page=1|date=January 1, 2003|issn=0025-2816}}</ref> [[Kelly Rowland]],<ref>{{cite web|title=Five Minutes With: Kelly Rowland|newspaper=[[Lincolnshire Echo]]|date=July 1, 2010|page=11}}</ref> [[Rihanna]]<ref>{{cite web|last=Collins|first=Hattie|title=Janet Jackson on surviving the family circus and missing Michael|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article6931756.ece|work=The Sunday Times |location=UK |date=November 29, 2009|accessdate=November 28, 2009}}</ref> và ca sĩ người Brazil [[Kelly Key]]<ref>{{cite web|url=http://www.universomusical.com.br/materia.asp?mt=sim&id=170&cod=po|title=Kelly Key busca o sucesso de Christina Aguilera, Jennifer Lopez, Britney Spears, Madonna e Janet Jackson|work=Universo Musical|accessdate=January 7, 2012}}</ref> đều gọi bà là nguồn cảm hứng lớn nhất, trong khi [[Rozonda Thomas|Rozonda "Chilli" Thomas]] của nhóm [[TLC (ban nhạc)|TLC]],<ref>{{cite web|author=Sonia Murray|title=TLC: Struggling in the Spotlightnot|newspaper=Austin American-Statesman|date=July 12, 1999|page=E.1}}</ref> [[Cassie (ca sĩ)|Cassie]],<ref name="Cassie">{{cite web| last= Bobbin | first= Jay | title= Imitation nation ; World of pop music filled with copycats | newspaper=Chicago Tribune | page=54 | date= August 9, 2006|issn=1085-6706}}</ref> [[Nicki Minaj]],<ref>{{cite web|author=Jessica Herndon|title=Nicki Minaj's Top 5 Style Idols|newspaper=People|volume=74|issue=21|date=December 6, 2010|page=58|issn=0093-7673}}</ref> [[Keri Hilson]],<ref>{{cite web|title=Keri Hilson&nbsp;— Keri Hilson Respects Tlc's Image|url=http://www.contactmusic.com/news.nsf/story/keri-hilson-respects-tlcs-image_1224124|publisher=[[Contactmusic.com]]|date=June 6, 2011|accessdate=June 6, 2011}}</ref> và DJ [[Havana Brown (DJ)|Havana Brown]],<ref>{{cite web|author=Lauren Alpe|title=Interview&nbsp;— Havana Brown|url=http://www.mtv.com.au/news/575712f9-havana-brown-interview/|publisher=MTV News|date=June 13, 2011|accessdate=June 13, 2011}}</ref> cũng lên tiếng về sự ảnh hưởng của bà. Elysa Gardner của ''USA Today'' gọi "vũ đạo nhạy bén, náo nhiệt, nữ tính nhưng cũng mang tính dữ dội của [[chủ nghĩa nữ giới]] hiện đại, là dấu ấn từ lâu trong phong cách trình diễn của bà" đã ảnh hưởng tới nhiều lớp ca sĩ ngày nay.<ref>{{cite web|author=Elysa Gardner|title=Luscious Jackson|newspaper=USA Today|date=July 28, 2000|page=1.E|issn=0734-7456}}</ref> Adrienne Trier-Bieniek khẳng định "nhiều học giả tìm thấy nguồn gốc của chủ nghĩa nữ giới da màu trong văn hóa đại chúng ở Janet Jackson", để lại dấu ấn tới nhiều ngôi sao nhạc pop khác.<ref>{{harvnb|Trier-Bieniek|2016|p=181}}</ref> Những người tiếp nối bà thường được nhắc tới bằng cụm từ "Janet-come-lately's."<ref>{{cite web|author=Gemma Tarlach|title=Janet Jackson takes her place as Queen of Pop|newspaper=[[Milwaukee Journal Sentinel]]|date=October 17, 2001|page=12.B|quote=While her vocal skills are at least as decent as Britney Spears and the other Janet-come-latelys, it's Jackson's skills as an entertainer—and commanding stage presence—that make her so deserving of the spotlight.}}</ref><ref>{{cite web|author=Sarah Rodman|title=MonsterJam Lacks Star Power|newspaper=Boston Globe|date=October 31, 2006|page=E.7|issn=0743-1791|quote=Most disappointing was crunk princess Ciara. The Janet-come-lately and her octet of dance-floor acrobats moved with ferocious elegance to tracks like 'Goodies,' but the singer had glaring microphone problems when she spoke—tediously, about the 'importance' of her upcoming sophomore album.}}</ref> Những nghệ sĩ khác thường được so sánh với bà bao gồm [[Mýa]],<ref>{{cite web|author=Chuck Taylor|title=Mya: For Free|newspaper=Billboard|volume=112|issue=47|date=November 18, 2000|page=1|issn=0006-2510}}</ref> [[Brandy Norwood|Brandy]],<ref>{{cite web| title = Afrodisiac > Overview | publisher=Allmusic | year = 2006 | url = {{Allmusic|class=album|id=r693848|pure_url=yes}}| accessdate = February 22, 2009}}</ref> [[Tatyana Ali]],<ref>{{cite web| title = Kiss the Sky > Overview | publisher=Allmusic | year = 2006 | url = {{Allmusic|class=album|id=r374155|pure_url=yes}}| accessdate = February 22, 2009}}</ref> [[Christina Milian]],<ref>{{cite web|author=Barry Walters|title=It's About Time|newspaper=Rolling Stone|date=July 2004|page=120|issn=0035-791X}}</ref> [[Lady Gaga]],<ref>{{cite web|author=Kyle Anderson|url=http://newsroom.mtv.com/2010/09/10/lady-gaga-madonna-janet-jackson-vma-video/|title=Lady Gaga Just Like 'Madonna And Janet Jackson,' Says Mark Ronson|publisher=MTV|date=September 10, 2010|accessdate=June 8, 2011}}</ref> [[Namie Amuro]]<ref>{{cite web|author=Kishin Shinoyama|title=Tokyo glamorama|newspaper=Harper's Bazaar|page=312|date=Oct 2000}}</ref> và [[BoA]].<ref>{{cite web|title=Korean Pop Star BoA Prepares U.S. Takeover|url=http://www.rap-up.com/2008/09/23/korean-pop-star-boa-prepares-us-takeover/|newspaper=[[Rap-Up]]|accessdate=April 19, 2011}}</ref> Nhà xã hội học Shayne Lee bình luận "khi Janet bước tới điểm xế chiều của triều đại Nữ hoàng nhạc Pop gợi cảm, [[Beyoncé Knowles]] nổi lên như người kế nhiệm."<ref name="ER" /> Joan Morgan của tạp chí ''Essence'' có viết: " ''Control'', ''Rhythm Nation 1814'' và ''janet.'' cho thấy nữ ca sĩ kiêm vũ công thiết lập lại tiêu chuẩn văn hóa đại chúng mà ta thấy hiện nay."<ref>{{cite web|author=Joan Morgan|title=Before Sunset|newspaper=Essence|date=August 2010|page=106}}</ref>
 
==Thành tựu==
Dòng 280:
*{{cite book |last=Nickson|first=Chris |title=Usher: The Godson of Soul|publisher=Simon and Schuster|year=2005|isbn=978-1-4169-0922-4|ref = harv}}
*{{cite book | last = Sutherland | first = William | title = Aaliyah Remembered | publisher=Trafford Publishing | year = 2005 |isbn = 978-1-4120-5062-3|ref = harv}}
*{{cite book | last=Dominguez|first=Pier|title=Christina Aguilera: A Star is Made : The Unauthorized Biography|publisher=Amber Books Publishing|year=2003|isbn=978-0-9702224-5-9|ref = harv}}
*{{cite book | last=Trier-Bieniek|first=Adrienne |title=The Beyonce Effect: Essays on Sexuality, Race and Feminism|publisher=McFarland|year=2016|isbn= 978-0-7864-9974-8|ref = harv}}
*{{cite book|last=Bronson|first=Fred|authorlink=Fred Bronson|title=The Billboard Book of Number One Hits|publisher=Billboard Books|year=2003|isbn=0-8230-7677-6|ref = harv}}