Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Viên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Đánh giá về ông: sửa chính tả 3, replaced: Tham Mưu → Tham mưu using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= Cao'''CAO VănVĂN ViênVIÊN
| hình= [[Tập tinHình: caovanvien.jpg|180px]]
|ngày sinh=[[11 tháng 12]], [[1921]]
| chú thích hình= '''Đại tướng Cao Văn Viên
|ngày mất={{ngày mất và tuổi|2008|1|22|1921|12|11}}
| ngày sinh= '''{{ngày sinh|1921|12|11}}
|hình= [[Tập tin:caovanvien.jpg]]
| ngày mất= '''{{ngày mất và tuổi|2008|1|22|1921|12|11}} (87 tuổi)
|chú thích hình= Cao Văn Viên
| nơi sinh= '''[[Vạn Tượng]],<ref> Do Thân phụ làm Công chức cho Chính quyền Thuộc địa Pháp và được cử đi tùng sự tại Lào, nên tướng Cao Văn Viên được sinh ở đây</ref> [[Lào]]<br/>[[Liên bang Đông Dương]]
|quốc tịch=
| nơi mất= '''[[Quận Arlington, Virginia|Arlington]], [[Virginia]], <br/>[[Hoa Kỳ]]
|biệt danh=
|thuộc phục vụ= '''[[TậpHình: tin:Flag of the South Vietnamese ArmyVietnam.jpgsvg|22px40px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
|nơi sinh=[[Vientiane]]-[[Lào]]
| thuộc= '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|nơi mất= [[Quận Arlington, Virginia|Arlington, Virginia]], [[Hoa Kỳ]]
| năm phục vụ= 1951'''[[1949]]-[[1975]]
|thuộc= [[Tập tin:Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| cấp bậc= '''[[Tập tin: US-O10 insignia.svg|30px64px]] [[Đại tướng]]
|năm phục vụ= 1951-1975
| đơn vị= '''[[Hình: ARVN Joint General Staff Insignia.svg|18px]] [[Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Bộ Tổng Tham mưu]]<ref> Tướng Cao Văn Viên có ba lần phục vụ ở Bộ Tổng Tham mưu:<br/>-Lần thứ nhất: Thiếu tá Trưởng Phòng 4 (1955).<br/>-Lần thứ hai: Thiếu tướng Tham mưu trưởng (1964).<br/>-Lần thứ ba: Trung tướng, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng (1965-1975).</ref><br/>[[Hình: ARVN Presidential Guards Unit's Insignia.png|24px]] [[Dinh Độc Lập|Phủ Tổng thống]]<br/>[[Hình: Vietnamese Airborne Division 's Insignia.svg|18px]] [[Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa|Binh chủng Nhảy dù]]<br/>[[Hình: QD III VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và QK 3]]<br/>[[Hình: Tổ quốc - Đại dương.gif|22px]] [[Hải quân Việt Nam Cộng hòa|Hải quân VNCH]]
|cấp bậc= [[Tập tin:US-O10 insignia.svg|30px]] [[Đại tướng]]
| chỉ huy= '''[[Tập tinHình: Flag of France.svg|22px26px]] [[Quân đội Pháp|QĐ Liên hiệp Pháp]]<br/>[[Tập tinHình: Flag of Souththe VietnamVietnamese National Army.svg|22px26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br>[[Tập tinHình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px26px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|đơn vị=
| tham chiến= '''-[[Chiến tranh Đông Dương]]<br/>-[[Chiến tranh Việt Nam]]
|chỉ huy= [[Tập tin:Flag of France.svg|22px]] [[Quân đội Pháp]]<br>[[Tập tin:Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]<br>[[Tập tin:Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| khen thưởng= '''-[[Bảo quốc Huân chương|B.Quốc H.Chương Đệ II]]<ref> Bảo quốc Huân chương Đệ nhị đẳng.</ref><br/>[[Hình: Silver Star ribbon.svg|20px]] [[Hoa Kỳ|H.Chương Sao bạc]]<ref> Huân chương ngôi sao bạc do Hoa Kỳ trao tặng</ref><br/>[[Hình: Legion of Merit ribbon.svg|24px]] [[Quân đoàn|Huy chương Q.Đoàn]]<ref> Bằng tưởng thưởng hoặc Huy chương cấp Quân đoàn.</ref>
|tham chiến=
| công việc khác= '''[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|20px]][[Hình: Flag of the United States.svg|20px]] [[Phái bộ ngoại giao|Tuỳ viên Quân sự]]<ref> Sĩ quan Tuỳ viên Quân sự cho Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ.</ref><br/>[[Hình: Flag of the Minister of National Defense of the Republic of Vietnam.svg|20px]] [[Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa|T.Trưởng Q.Phòng]]<ref> Tổng trưởng hay Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.</ref>
|khen thưởng=[[Tập tin:Silver Star ribbon.svg|30px]] [[Huân chương Ngôi sao bạc]]<br>[[Tập tin:Legion of Merit ribbon.svg|30px]] Legion of Merit<br>National Order of Vietnam
|công việc khác=
}}
 
'''Cao Văn Viên'''<ref> Ông sinh ở Vientiane (còn gọi theo phiên âm là Viên Chăn hoặc theo Hán-việt là Vạn Tượng), nên thân phụ ông lấy chữ Viên để đặt tên cho ông.</ref> (1921-2008), nguyên là một trongtướng 5lĩnh Bộ quanbinh đượccủa [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], phongcấp hàmbậc [[Đại tướng]]. trongÔng xuất thân từ trường Võ bị Địa phương do Chính quyền Thuộc địa Pháp mở ra ở miền Đông Nam phần Việt Nam, nhằm đào tạo sĩ quan người bản xứ để phục vụ cho [[Quân lựcđội Liên hiệp. Hầu hết thời gian tại ngũ, ông được đảm trách những chức vụ chuyên về lãnh vực Tham mưu. Là một trong năm quân nhân được thăng cấp Đại tướng của Việt Nam Cộng hòa]]. Ông cũng là vị tướngngười giữ chức vụ [[Tổng tư lệnh|Tổng Tham mưu trưởng]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] trong thời gian lâu nhất (1965-1975).
 
==ThânTiểu thếsửbước đầu binhBinh nghiệp==
Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1921 tại [[Vientiane]], [[Lào]]<ref> Nguyên quán của tướng Cao Văn Viên ở miền Bắc Việt Nam.</ref> trong một gia đình thương nhân, có đời sống kinh tế tương đối. Thời niên thiếu, ông được học cấp Tiểu và Trung học theo giáo trình Pháp tại Vạn Tượng (Vientiane). Năm 1942, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông tại Lào với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau đó, ông được bổ dụng làm công chức tại Paksé, Nam Lào. Đầu năm 1949, ông theo cha mẹ trở về Việt Nam.
Ông sinh ngày [[11 tháng 12]] năm 1921 tại [[Vientiane]], [[Lào]]. Gia đình lấy chữ đầu của chữ Vientiane để đặt tên cho ông.{{cần chú thích|date=ngày 4 tháng 8 năm 2015}}
 
===Quân đội Liên hiệp Pháp===
Thuở nhỏ, ông học tại Lào và đậu bằng Trung học Pháp. Năm 1945, ông làm công chức tại Paksé, Nam Lào. Năm 1949, ông hồi hương, nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, được cử theo học khóa đào tạo sĩ quan người Việt tại trường Võ bị Cap Saint Jacques ([[Vũng Tàu]]) và tốt nghiệp thủ khoa với quân hàm [[Thiếu úy]]. Cùng tốt nghiệp với ông hai sĩ quan trẻ là [[Nguyễn Chánh Thi]] và [[Nguyễn Hữu Hạnh]].
Đầu năm 1949, sau khi hồi hương, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, được cử theo học khóa đào tạo sĩ quan người Việt tại trường Võ bị Địa phương ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques).<ref> Trường Võ bị Cap Saint Jacques là hậu thân của trường Sĩ quan Nước Ngọt, về sau cải danh thành trường Võ bị Địa phương Nam Việt.</ref> Cuối năm mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc [[Thiếu úy]].<ref> Cùng tốt nghiệp khóa sĩ quan với tướng Cao Văn Viên ở trường Võ bị Địa phương Nam Việt năm 1949, sau này đều là sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa:<br/>-''Cấp tướng:''<br/>-Trung tướng [[Nguyễn Chánh Thi]] (Sinh năm 1923 tại Thừa Thiên. Sau cùng là Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật. Giải ngũ năm 1966).<br/>-Chuẩn tướng [[Nguyễn Hữu Hạnh]] (Sinh năm 1926 tại Mỹ Tho. Sau cùng là Chuẩn tướng Thanh tra Quân đoàn I. Giải ngũ năm 1974. Năm 1975 tái ngũ được Tổng thống Dương văn Minh cho làm Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng).<br/>-''Cấp Đại tá:''<br/>-'''Huỳnh Văn Tư''' (Sau cùng là Quân trấn trưởng Sài Gòn-Gia Định)<br/>-'''Nguyễn Văn Đầy'''<br/>-'''Nguyễn Văn Ngưu''' (Sinh năm 1920 tại Mỹ Tho. Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng Long An. Giải ngũ năm 1970, đắc cử Thương nghị sĩ trong Quốc hội Lưỡng viện Việt Nam Cộng hòa).<br/>-'''Nguyễn Văn Ưng''' (Sinh năm 1918 tại Bình Dương. Sau cùng là Đại tá Trưởng Ban Thanh tra của Tổng cục Quân huấn. Giải ngũ năm 1974).<br/>-'''Trần Văn Xội''' (Sinh năm 1915 tại Nam vang, Cam Bốt. Sau cùng là Cục trưởng Cục Quân vận. Giải ngũ năm 1972).</ref> Ra trường, ông được phục vụ trong một đơn vị Bộ binh.
 
Sau khi ra trường năm 1950, ông được điều về công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam vừa được thành lập. Một năm sau, năm 1951, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử theo học lớp Chỉ huy chiến thuật tại Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật [[Hà Nội]].
 
====Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Năm 1952, ông được bổ nhiệm làm Trưởng phòng 2 (tình báo) Khu chiến Hưng Yên. Cuối năm, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 10 Việt Nam. Năm 1954, đổi sang làm Trưởng phòng 3 (tác chiến) Khu chiến Hưng Yên. Tháng 3 năm 1955, thăng [[Thiếu tá]], Trưởng phòng 4 (tiếp vận) Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Năm 1951, chuyển biên chế sang Quân đội Quốc gia, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử theo học lớp Chỉ huy chiến thuật tại Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật Hà Nội.<ref> Tiền thân của trường Đại học Quân sự, rồi trường Chỉ huy Tham mưu sau này.</ref> Năm 1952, ông được cử làm Trưởng phòng 2 (Tình báo) trong Bộ chỉ huy Khu chiến Hưng Yên do Đại úy Dương Quý Phan<ref> Đại úy Dương Quý Phan (Năm 1956 là Đại tá Quân trấn trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn. Giải ngũ năm 1963).</ref> làm Chỉ huy trưởng Cuối năm, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 10 Việt Nam. Năm 1954, đổi sang làm Trưởng phòng 3 (Hành quân) Khu chiến Hưng Yên. Tháng 3 năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]], được cử làm Trưởng phòng 4 (Tiếp vận) tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia.
 
SauCuối tháng 10 năm 1955, sau khi chínhChính thể [[Việt Nam Cộng hòa]] đượchình thành lập, ông được cử làm Tùy viên Quân sự Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Washington DC, [[Hoa Kỳ]]. NămĐầu năm 1957, ông được triệu hồi về nước tiếp tục phục vụ tại Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 7 năm 1957, ông được cử theo học lớp Chỉ huy & Tham mưu cao cấp tại trườngHọc viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Đầu tháng 2 năm 1958 tốt nghiệp về nước, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu tại Phủ Tổng thống. Cuối năm ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.
 
==Người đứng=Đứng ngoài các cuộc đảo chính===
Sau khi tốt nghiệp về nước, tháng 2 năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống. Cuối năm ông được thăng [[Trung tá]].
Trong cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|đảo chính 1960]], ông bị lực lượng đảo chính của Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] bắt giữ và được thả ra sau khi cuộc đảo chính hoàn toàn thất bại. Ngay sau đó, ông được Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]] bổ nhiệm làm Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù thay thế Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] đã đào thoát sang Campuchia. Cuối năm ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm.
 
Đến khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính 1963]] nổ ra, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], kiên quyết không đứng về phe đảo chính do các tướng lĩnh [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Mai Hữu Xuân]], [[Lê Văn Kim]] tiến hành. Vì vậy ông bị các tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Nhảy dù, phải bàn giao cho Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]]. Tuy nhiên do sự can thiệp của tướng Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại tá [[Hồ Tấn Quyền]] và [[Lê Quang Tung]]. Sau 1 tuần lễ ông được phục hồi chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Dù.
==Người đứng ngoài các cuộc đảo chính==
Trong cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|đảo chính 1960]], ông bị lực lượng đảo chính của Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] bắt giữ và được thả ra sau khi cuộc đảo chính hoàn toàn thất bại. Ngay sau đó, ông được Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]] bổ nhiệm làm Tư lệnh Lữ đoàn Dù thay Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] đã đào thoát sang Campuchia. Cuối năm ông được thăng cấp [[Đại tá]].
 
Sau khi tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện cuộc [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|chỉnhChỉnh lý]] để giành quyền lực,lãnh đểđạo. Để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, ngày [[3 tháng 3]] năm 1964, tướng Khánh đã thăng đặc cách cho ông tại mặt trận lên cấp [[Thiếu tướng]] (ông bị thương trong cuộc hành quân Quyết Thắng tại [[Hồng Ngự]], Kiến Phong). Ông là vị Đại tá cuối cùng được thăng cấp Thiếu tướng trước khi Việt Nam Cộng hòa đặt ra quy chế phong Đại tá lên Chuẩn tướng.<ref>Lâm Vĩnh Thế, ''Nhóm tướng trẻ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào giai đoạn 1964-1965.</ref>
Đến khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính 1963]] nổ ra, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], kiên quyết không đứng về phe đảo chính do các tướng lĩnh [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Mai Hữu Xuân]], [[Lê Văn Kim]] tiến hành. Vì vậy ông bị các tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Dù. Tuy nhiên do sự can thiệp của tướng Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại tá [[Hồ Tấn Quyền]] và [[Lê Quang Tung]]. Sau 1 tuần lễ ông được phục hồi chức Tư lệnh Lữ đoàn Dù.
 
Tháng 9 năm 1964, ông được tướng Khánh cử vào chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu, sau khi bàn giao chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn nhảy dù lại cho cấp phó là Đại tá [[Dư Quốc Đống]]. Ngày 12 tháng 10, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Trung tướng [[Trần Văn Minh (lục quân)|Trần Văn Minh]] (Lục quân) để đi giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật thay thế Trung tướng [[Trần Ngọc Tám]]<ref> Trung tướng Trần ngọc Tám được chuyển về Trung ương giữ chức vụ Tư lệnh [[Địa phương quân và nghĩa quân|Địa phương quân và Nghĩa quân]].</ref> Đến tháng 2 năm 1965 tướng Khánh bị các nhóm các tướng trẻ gạt bỏ khỏi Chính quyền và ngày 11 tháng 10 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn III lại cho Thiếu tướng [[Nguyễn Bảo Trị]]. ngay sau đó ông được thăng cấp [[Trung tướng]] và được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng do Trung tướng [[Nguyễn Hữu Có]] Tổng trưởng Quốc phòng kiêm nhiệm.
Sau khi tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện cuộc [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|chỉnh lý]] để giành quyền lực, để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, ngày [[3 tháng 3]] năm 1964, tướng Khánh đã thăng đặc cách cho ông tại mặt trận lên cấp [[Thiếu tướng]] (ông bị thương trong cuộc hành quân Quyết Thắng tại [[Hồng Ngự]]). Ông là vị Đại tá cuối cùng được thăng cấp Thiếu tướng trước khi Việt Nam Cộng hòa đặt ra quy chế phong Đại tá lên Chuẩn tướng.<ref>Lâm Vĩnh Thế, ''Nhóm tướng trẻ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào giai đoạn 1964-1965.</ref>
 
ThángNgày 14 tháng 9 năm 19641966, ông đượckiêm tướngnhiệm Khánh cửlệnh vàoHải chứcquân vụthay Thamthế mưuHải trưởngquân LiênĐại tá Trần văn Phấn.<ref> Hải quân tại BộĐại Tổng tham'''Trần mưu.Văn Phấn''' (Sinh năm 1926, Tốt Nhưngnghiệp chỉkhóa 1 Sĩ quan Hải quân Nha Trang. Tư lệnh Hải quân 1965-1966. Giải ngũ năm 1966).</ref> Hơn một tháng sau ngày 31 tháng 10, ông chuyểnbàn sang giữgiao chức vụ Tư lệnh QuânHải đoànquân IIIlại cho Hải quân Đại tá [[Trần Văn Chơn]]. ĐếnNgày 28 tháng 21 năm 19651967, tướngông Khánhkiêm bịnhiệm cácchức vụ Tổng trưởng Quốc phòng thay Trung tướng trẻNguyễn gạtHữu bỏCó, khỏicũng chính quyềnlà người tiền nhiệm của ông trong vị trí Tổng tham mưu trưởng, bị bãi chức trong khi đang đi công du tại Đài Loan. Cũng vào thời điểm này, ngày 2 tháng 4 ông được thăng quân hàmcấp [[TrungĐại tướng]] tại nhiệm. ngày [[147 tháng 10]]11 ôngcùng đượcnăm, cửbàn vàogiao chức vụ Tổng Thamtrưởng mưuQuốc trưởngphòng thaylại cho Trung tướng [[Nguyễn HữuVăn Vỹ]]. Năm 1972, Hội đồng Nội các quyết định chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quốcđược phòngxếp đangngang kiêmhàng nhiệmTổng trưởng và được dự họp trong Hội đồng Nội các.
 
==1975==
Năm 1966, ông kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân trong 1 tháng. Đầu năm 1967, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng trong thời gian ngắn thay tướng [[Nguyễn Hữu Có]], cũng chính là người tiền nhiệm của ông trong vị trí Tổng tham mưu trưởng, bị bãi chức trong khi đang đi công du tại Đài Loan. Cũng vào thời điểm này, ông được thăng quân hàm [[Đại tướng]].
Trước sức ép mãnh liệt của dư luận và áp lực quân sự của quân Bắc Việt, ngày 21 tháng 4 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Cũng không lâu sau đó, Tướng Cao Văn Viên cũng từ nhiệm vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 và xin giải ngũ khi chưa có quyết định chính thức của tân Tổng thống [[Trần Văn Hương]]. Ông giao việc xử lý thường vụ lại cho [[Trung tướng]] [[Đồng Văn Khuyên]] Xử lý Thường vụ Tổng Tham mưu trưởng ngày 28 tháng 4 đem theo gia đình cùng với gia đình cựu Tổng thống Thiệu lên máy bay di tản đến Đài Loan. Sau đó được sang MỹHoa Kỳ định cư. Sau khi phu nhân qua đời và không lâu sau đó người con trai duy nhất cũng vắn số. Ông sống bình lặng tại [[Quận Arlington, Virginia|Arlington]], Tiểu bang Virginia. Thời gian cuối đời ông sống ở viện dưỡng lão.
 
Ngày 22 tháng 1 năm 2008, ông từ trần tai nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.
Năm 1972, Hội đồng Nội các quyết định chức vụ Tổng tham mưu trưởng được xếp ngang hàng Tổng trưởng và được dự họp trong Hội đồng Nội các.
 
==NămNhận 1975xét==
Trước sức ép mãnh liệt của dư luận và áp lực quân sự của quân Bắc Việt, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Cũng không lâu sau đó, Tướng Cao Văn Viên cũng từ nhiệm vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 và xin giải ngũ khi chưa có quyết định chính thức của tân Tổng thống [[Trần Văn Hương]]. Ông giao việc xử lý thường vụ lại cho [[Trung tướng]] [[Đồng Văn Khuyên]] và lên máy bay di tản sang Mỹ.
 
Sau sự kiện 1975, ông sống bình lặng tại [[Quận Arlington, Virginia|Arlington, Virginia]]. Thời gian cuối đời ông sống ở viện dưỡng lão.
 
Ông mất vào rạng sáng ngày [[22 tháng 1]] năm 2008, thọ 87 tuổi.<ref>{{chú thích báo
|url=http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/01/080122_caovanvienobit.shtml
|title=Đại tướng Cao Văn Viên qua đời
|publisher=BBC Tiếng Việt
|date=ngày 22 tháng 1 năm 2008
|accessdate=ngày 22 tháng 1 năm 2008}}</ref>
===Đánh giá về ông===
Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng tham mưu trưởng, ông được đánh giá là một tướng lĩnh có tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên, ông cũng bị đánh giá là một người an phận và không muốn tạo trách nhiệm.
 
Hồi ký "Việt Nam Nhân Chứng" của tướng Trần Văn Đôn viết: "''Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!''"
 
Trong hồi ký "Đôi dòng ghi nhớ" của cựu Đại tá [[Phạm Bá Hoa]], chánh vănVăn phòng Tổng tham mưu trưởng, cũng nhận xét là trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, ông không thực sự làm hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ, ít ra chiến trường, đặc biệt là vào những năm 1973-1975, ông chỉ còn chú trọng nhiều đến việc tập luyện [[yoga]] và thậm chí, đighi danh vào Đại học để lấy bằng Cử nhân [[Văn chương Pháp]] tại [[Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn|Đại học Văn khoa Sài Gòn]] ngoài giờ làm việc.
 
Lý giải sự việc này, theo cuộc phỏng vấn của Lý Thanh Tâm tháng 12 năm 2004, ông cho rằng do Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, đã tập trung hết quyền binh trong tay, đã cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham mưu chỉ còn giữ vai trò tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực như trên.
 
==Đời tưGia đình==
* Thân phụ: Cụ Cao Văn Tý (Sinh năm 1900. Sinh quán tại miền Bắc Việt Nam. Nguyên là một thương nhân buôn bán tại Lào)
Song thân của ông là ông Cao văn Tý và bà Nguyễn Thị Võ
* Thân mẫu: Cụ Nguyễn Thị Võ
* Nhạc phụ: Cụ Trần Phong Ngàn (tự Hội đồng Ngàn)
* Nhạc mẫu: Cụ Từ Thị Thu
* Phu nhân: Bà Trần Thị Tạo (Sinh năm 1925 tại Sóc Trăng) - Ông bà có 2 người con: 1 trai, 1 gái.
* Quý nam: Cao Anh Tuấn
 
 
Ông lập gia đình với bà Cécile Trần Thị Tạo, sinh năm 1925, đã từ trần tại Mỹ. Ông bà có 2 người con: 1 trai, 1 gái. Cô con gái hiện là (2015) giáo sư luật và cũng là nhà văn [[Lan Cao]].
 
==Chú thích==
{{thamTham khảo|2}}
 
==Tham khảo==
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=(2011). |title=''Lược sử quânQuân lực Việt Nam Cộng hoà |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}}hòa.
 
{{Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa}}
 
{{Thời gian sống|1921|2008}}
 
[[Thể loại:PhậtSinh tử Việt Nam1921]]
[[Thể loại:NgườiMất Mỹ gốc Việt2008]]
[[Thể loại:Đại tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Mỹ gốc Việt]]
[[Thể loại:Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp]]
[[Thể loại:Bảo quốc Huân chương]]
[[Thể loại:Phật tử Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Việt di cư tới Mỹ]]
[[Thể loại:Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:BảoNgười quốcMỹ Huângốc chươngViệt]]