Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Khánh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:31.6431640
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{bài cùng tên|Nguyễn Khánh (định hướng)}}
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= Nguyễn'''NGUYỄN KhánhKHÁNH
| hình= [[Hình: Nguyễn Khánh 1964.jpg|200px]]
| ngày sinh= 8-11-'''{{ngày sinh|1927|11|8}}
| ngày mất= 11-1-'''{{ngày mất|2013|1|11}} ([[86]] tuổi)
| nơi sinh= '''[[Trà Vinh]], [[Việt Nam]]
| nơi mất= '''[[San Jose, California|San JoseJosé]], [[California]] - <br/>[[Hoa Kỳ]]
| thuộcphục vụ= '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese ArmyVietnam.jpgsvg|22px40px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc = '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
| năm phục vụ= '''[[1946]]-[[1965]]
| cấp bậc= '''[[Hình: US-O10 insignia.svg|55px64px]] [[Đại tướng]]
| đơn vị= Binh chủng Nhảy dù<br/>Bộ Tổng tham mưu<br/>Quân đoàn II & Quân đoàn I
| chỉđơn huyvị= '''[[Hình: FlagVietnamese Airborne Division of's FranceInsignia.svg|22px20px]] [[Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa|Binh chủng Nhảy dù]]<br/>[[Hình: Quân độikỳ Lục quân Việt Nam Cộng hòa.png|20px]] [[Lục quân Việt Nam Cộng hòa|Quân chủng Bộ Phápbinh]]<br/>[[Hình: FlagARVN ofJoint SouthGeneral VietnamStaff Insignia.svg|22px20px]] [[QuânBộ độiTổng Quốctham giamưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Bộ Tổng tham mưu]]<br/>[[Hình: FlagQD ofII theVNCH.jpg|20px]] South[[Quân Vietnameseđoàn ArmyII (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II và QK 2]]<br/>[[Hình: QD I VNCH.jpg|22px20px]] [[Quân lựcđoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và QK 1]]
| côngchỉ việc kháchuy= Tổng'''[[Hình: Flag lệnhof France.svg|26px]] [[Quân lựcđội ViệtPháp|QĐ NamLiên Cộnghiệp hòaPháp]]<br/>Quốc[[Hình: trưởngFlag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân Cộngđội hòaQuốc gia]]<br/>Thủ[[Hình: tướngFlag of the South Vietnamese Army.jpg|26px]] [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa|Quân đội VNCH]]}}
| tham chiến= '''- [[Chiến tranh Đông Dương]]<br/>- [[Chiến tranh Việt Nam]]
[[Hình: Nguyenkhanh.jpg|nhỏ|phải|150px|<center>'''Cựu tướng<br>Nguyễn Khánh<br/>năm 2000]]
| khen thưởng= '''[[Bảo quốc Huân chương|B.quốc H.chương đệ II]] <ref> Đệ nhị đẳng Bảo quốc Huân chương (ân thưởng) và nhiều huy chương Quân sự, Dân sự khác.</ref>
| công việc khác= '''[[-]] [[Nguyên thủ Quốc gia|Quốc trưởng]]<br/>[[-]] [[Nguyên thủ Quốc gia|Thủ tướng]]<br/>[[Hình: Flag of the President of the Republic of Vietnam as Supreme Commander of the Armed Forces.svg|20px]] [[Tổng tư lệnh|Tổng Tư lệnh]]<br/>[[Hình: ARVN Joint General Staff Commander Flag.svg|20px]] [[Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Tổng Tham mưu trưởng]]
}}
[[Hình: Nguyenkhanh.jpg|nhỏ|phải|150px220px|<center>'''Cựu tướng<br> Nguyễn Khánh<br/>năm 2000]]
 
'''Nguyễn Khánh''' (1927-2013) nguyên là một trong 5 tướng lĩnh manggốc Nhảy dù của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Đại tướng]]. củaÔng xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân Viễn Đông do [[Quân lựcđội Thuộc địa Pháp mở ra tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam. CộngRa hòa]]trường, ông được phục vụ ở một đơn vị Vệ binh. Sau ông được chuyển sang Binh chủng Nhảy dù. Ông đã tuần tự đảm trách từ chức vụ chỉ huy cấp Trung đội, dần lên đến chỉ huy cấp Sư đoàn, rồi Quân đoàn. Ông cũng là một chính khách, từng giữ chức vụ [[Nguyên thủ quốc gia|Quốc trưởng]] và [[Thủ tướng]] của [[Việt Nam Cộng hòa]] và kiêm các chức [[Tổng tư lệnh]] và [[Tổng tư lệnh|Tổng thamTham mưu trưởng]] Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn [[1964]]-[[1965]]. Ông được xem là người từng nắm giữ nhiều quyền lực tối cao nhất trong lịch sử 20 năm tồn tại của Việt Nam Cộng hòa.
 
==ThânTiểu thếsửbước đầu binhBinh nghiệp==
Ông sinh ngày [[8 tháng 11]] năm [[1927]] tại [[Trà Vinh]], miền Tây Nam phần Việt Nam, trong một gia đình điền chủ giàu có. ThânThời phụniên thiếu, do gia đình có điều kiện nên ông được cụhọc Nguyễnhành Bửuđầy đủ. Năm 1944, mộtông địatốt chủnghiệp lớnTrung học Tràchương Vinhtrình Pháp tại Cần Thơ với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). ThânNăm mẫu1945, sau cụkhi Cách Phạmmạng Lệtháng Trân8 nổ ra, đang học lớp Đệ nhất (lớp 12 bây giờ), ông bỏ học tham gia phong trào Việt Minh tại địa phương một thời gian ngắn.
 
SauGiữa tháng 7 năm 1946, sau khi người Pháp tái chiếnchiếm Đông Dương, ông bỏ Việt Minh và nhập ngũ vào Quân đội Pháp. Do có trình độ Trung họctài, ông được cho theo học khóa 1 (còn gọi là khóa [[Nguyễn Văn Thinh]]) tại trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt, khai giảng ngày 15 tháng 7 năm 1946. Ngày 1 tháng 7 năm 1947, ôngmãn khóa tốt nghiệp ra trường với cấp bậc [[Thiếu úy]]<ref> Khóa 1 Võ bị Liên quân Viễn Đông tốt nghiệp với tổng số 16 khóa sinh, chỉ có ba người được mang cấp Thiếu úy, số còn lại mang cấp Chuẩn úy. Tướng Khánh là một trong ba Thiếu úy, hai người còn lại là [[Lâm Văn Phát]] và [[Trần Ngọc Tám]] (Cả hai về sau đều là Trung tướng).</ref> và được điều đi phục vụ ở Tiểu đoàn 2 Vệ binh Nam Việt, giữ chức vụ Trung đội trưởng.
Do điều kiện gia đình, từ nhỏ ông được ăn học đầy đủ, từng tốt nghiệp Trung học Pháp. Sau khi [[Cách mạng tháng 8]] nổ ra, ông có tham gia phong trào [[Việt Minh]] một thời gian ngắn.
 
===Quân đội Liên hiệp Pháp===
Sau khi người Pháp tái chiến Đông Dương, ông bỏ Việt Minh và nhập ngũ vào Quân đội Pháp. Do có trình độ Trung học, ông được cho theo học khóa 1 (còn gọi là khóa [[Nguyễn Văn Thinh]]) tại trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt, khai giảng ngày 15 tháng 7 năm 1946. Ngày 1 tháng 7 năm 1947, ông tốt nghiệp ra trường với cấp bậc [[Thiếu úy]] và được điều đi phục vụ ở Tiểu đoàn 2 Vệ binh Nam Việt, giữ chức vụ Trung đội trưởng.
Đầu năm 1948, chuyển biên chế sang Quân đội Liên hiệp Pháp, ông được cử đi du học và tốt nghiệp khóa Đông Dương tại Học viện Quân sự Coetquidan và Võ bị Saint Cyr, Pháp. Thời kỳ này ông lấy tên là "Raymond Khánh". Sau khi mãn khóa học, về lại đơn vị và ngày 1 tháng 7 cùng năm ông được thăng cấp [[Trung úy]]. Tháng 12 cuối năm, ông là sĩ quan duy nhất được cử đi du học lớp huấn luyện Nhảy dù tại trường Nhảy dù Pau (Pháp), thụ huấn bằng dù T.7 và Phi cơ Ju.52. ThángNgày 1 tháng 6 năm 1949, ông được cử làm sĩ quan tùy viên của Thủ tướng [[Nguyễn Văn Xuân]].
 
Đầu năm 1950, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Nhảy dù Biệt lập (một trong các Trung đội trưởng dưới quyền của ông lúc bấy giờ là Trung úy [[Đỗ Cao Trí]]. Ngày 1 tháng 8 năm 1951, Đại đội Biệt lập được biến cải thành Tiểu đoàn 1 Nhảy dù, ông được giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng. Ban đầu, Tiểu đoàn đóng tại Chí Hòa (Sài Gòn). Cuối năm Tiểu đoàn chuyển ra Bắc, tham gia chiến dịch tại Hòa Bình trong thời gian 3 tháng.
Đầu năm 1948, ông được cử đi du học và tốt nghiệp khóa Đông Dương tại Học viện Quân sự Coetquidan và Võ bị Saint Cyr, Pháp. Thời kỳ này ông lấy tên là "Raymond Khánh". Sau khi mãn khóa học, về lại đơn vị và ngày 1 tháng 7 cùng năm ông được thăng cấp [[Trung úy]]. Tháng 12 cuối năm, ông là sĩ quan duy nhất được cử đi du học lớp huấn luyện Nhảy dù tại trường Nhảy dù Pau (Pháp), thụ huấn bằng dù T.7 và Phi cơ Ju.52. Tháng 6 năm 1949, ông được cử làm sĩ quan tùy viên của Thủ tướng [[Nguyễn Văn Xuân]].
 
==Phục vụ trong =Quân đội Quốc gia Việt Nam===
ĐầuTháng 3 năm 19501952, ôngchính đượcthức thăngchuyển cấpsang [[Đạiphục úy]]vụ Quân đội Quốc gia, ông được cử làm ĐạiTiểu độiđoàn trưởng ĐạiTiểu độiđoàn Nhảy22 Việt biệt lậpNam (một22e trongBVN). cácSau Trungđó độiđược trưởngthăng dướicấp quyền[[Thiếu củatá]] ông lúcchuyển bấyđi giờlàm Tiểu Trungđoàn úytrưởng [[ĐỗTiểu Caođoàn Trí]].13 ThángViệt 8Nam năm(13e 1951BVN), Đạiđồn độitrú Biệttại lập[[Cần đượcThơ]]. biếnĐầu cảinăm thành1953, Tiểu đoàn 1 Nhảyông dù.được Ông đượccử giữ chức Tiểu đoànkhu trưởng. BanBiệt đầu,khu TiểuCần đoànthơ. đóngCuối tạinăm Chíđược Hòathăng (Sàicấp Gòn).[[Trung Cuốitá]] năm,kiêm Tiểuchức đoànvụ thamChỉ giahuy chiếntrưởng dịchLiên tạiđoàn HòaLưu Bìnhđộng trongsố thời11 giantân 3lập thángtại Cần Thơ.
 
Tháng 4 năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Trưởng phòng 6. Thường tuần tháng 9 cùng năm, ông được cử đi du học lớp Tham mưu tại trường Tham mưu Paris (Pháp) trong thời gian 6 tháng, sau khi bàn giao chức vụ Trưởng phòng 6 lại cho Trung tá Trần Đình Lan.
Tháng 3 năm 1952, ông được chuyển làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 22 Việt Nam (22e BVN). Sau đó được thăng cấp [[Thiếu tá]] và chuyển về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 13 Việt Nam (13e BVN), đồn trú tại [[Cần Thơ]].
 
Đầu tháng 3 năm 1955, sau khi mãn khóa học từ pháp về nước, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Phân khu Cần Thơ kiêm Tỉnh trưởng Cần Thơ. Ngày 10 tháng 3 năm 1955, ông chủ toạ buổi lễ hợp tác của Thiếu tá Nguyễn Thành Đầy<ref> Thiếu tá Nguyễn Thành Đầy về sau giải ngũ ở cấp Trung tá.</ref> thuộc Lực lượng Hòa Hảo Dân xã, đem 1500 quân thuộc quyền trở về quy thuận với Chính phủ Quốc gia tại Cần Thơ. Cuối tháng 3, ông được cử giữ chức vụ Thanh tra trưởng của Lực lượng Nhảy dù. Giữa tháng 6, ông được chuyển về Trung ương giữ chức vụ Tham mưu phó tại Bộ Tổng tham mưu. Ngày 1 tháng 7, ông được cử làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Không quân. Ngày 20 tháng 8, bàn giao chức vụ Phụ tá đặc trách Không quân lại cho Trung tá Trần Văn Hổ.<ref> Trung tá Trần Văn Hổ, sinh năm 1928 tại Sài Gòn. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Huế K2. Sau cùng là Đại tá Giám đốc Nha Động viên thuộc Bộ Quốc phòng.</ref> Trung tuần tháng 9, ông được cử làm Chỉ huy phó Chiến dịch Hoàng Diệu, dưới quyền Chỉ huy trưởng là Đại tá [[Dương Văn Minh]].
Đầu năm 1953, ông được cử giữ chức Tiểu khu trưởng Biệt khu Cần thơ. Cuối năm được thăng cấp [[Trung tá]] kiêm chức vụ Chỉ huy trưởng Liên đoàn Lưu động số 11 tân lập tại Cần Thơ. Tháng 4 năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng tham mưu giữ chức Trưởng phòng 6. Cuối năm, ông được cử đi du học lớp Tham mưu tại trường Tham mưu Paris (Pháp). Mãn khóa, trở về đơn vị cũ.
 
Đầu tháng 3 năm 1955, ông là Chỉ huy trưởng Phân khu Cần Thơ kiêm Tỉnh trưởng Cần Thơ. Cuối tháng này, ông được giữ chức vụ Thanh tra trưởng của đơn vị Nhảy dù. Đến tháng 6, về làm Tham mưu phó tại Bộ Tổng tham mưu. Qua đầu tháng 7, ông được cử làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Không quân. Trung tuần tháng 9, ông được cử làm Chỉ huy phó Chiến dịch Hoàng Diệu, dưới quyền Chỉ huy trưởng là Đại tá [[Dương Văn Minh]].
 
==Dưới nền Đệ nhất Cộng hòa==
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Sau khi chínhChính thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập, vào cuối tháng 10 năm 1955, ông được thăng cấp [[Đại tá]]. Đầu năm 1956, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh [[Sư đoàn 1 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 1 Dã chiến]] thay thế Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]]. Giữa năm 1957, nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 1 lại cho Đại tá [[Tôn Thất Đính]], ông được cử đi du học lớp Chỉ huy & Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth thuộc Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Sau đó được du học tiếp lớp Tham mưu & Phối hợp Đồng minh tại Nhật Bản. NămTháng 9 năm 1958 từ Nhật về nước, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Miền Hậu Giang<ref> (sauMiền Hậu Giang vào thời điểm này còn thuộc về Vùng 43 Chiến thuật,. bấyVề giờsau thuộc vùngVùng 3)4 Chiến thuật.</ref>
 
ThángNgày 18 tháng 8 năm 1959, ông được bổ nhiệm làm quyền Tổng thư ký Thường trực Quốc phòng thuộc Phủ Tổng thống. TrungNgày tuần21 tháng 1 năm 1960, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]], giữvà được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu 5.<ref> Quân khu 5 được thành lập từ lãnh thổ của Miền Hậu Giang trước đó.</ref> Giữa tháng 9 cùng năm, ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tham mưu trưởng. Ông giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức phản công dẫn đến sự thất bại của vụ đảo[[Đảo chính ngàyViệt [[11Nam thángCộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]] năm 1960 do Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] cầm đầu. Năm 1961, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn Phái đoàn công du thăm viếng Đài Loan.
 
KhiNgày cuộc17 tháng 12 năm 1962, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu lại cho Thiếu tướng [[ĐảoTrần chínhThiện Khiêm]] ngàyđể đi nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II và Vùng 2 Chiến thuật thay thế Thiếu tướng [[1Tôn thángThất 11Đính]]. nămKhi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính ngày 1/11/1963]] nổ ra, ông đã án binh bất động và không tỏ rõ thái độ. Khi đảo chính thành công, ông tuyên bố ủng hộ [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam, 1963Cộng hòa)|Hội đồng quânQuân nhân cáchCách mạng]]. Do đó, ông được Hội đồng Quân nhân Cách mạng thăng cấp [[Trung tướng]]. Trung tuần tháng 12 năm 1963, ông được chuyển vềra Vùng 1 Chiến thuật giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I thay thế Trung tướng [[Đỗ Cao Trí]]<ref> Trung tướng Đỗ Cao Trí từ Quân đoàn I về làm Tư lệnh Quân đoàn II, hoán chuyển nhiệm vụ với tướng Nguyễn Khánh.</ref>
Năm 1961, hướng dẫn Phái đoàn công du thăm viếng Đài Loan. Trung tuần tháng 12 cuối năm, ông bàn giao chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu lại cho Thiếu tướng [[Trần Thiện Khiêm]] để đi nhận chức Tư lệnh Quân đoàn II.
 
===Đỉnh cao quyềnQuyền lực===
Nhưng chỉ sau đó 3 tháng, nửa đêm về sáng ngày [[30 tháng 1]] năm [[1964]], được sự ủng hộ của [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và "nhóm các tướng trẻ", ông đã thựccầm hiệnđầu cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964|"Chỉnh lý"]]<ref> Bộ chỉ huy cuộc Chỉnh lý đặt trong Tòa Hành chính tỉnh Gia Định do Đại tá Huỳnh Văn Tồn ''(Tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt, sau cùng là Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh)'' làm Tỉnh trưởng, được sự bảo vệ của Tiểu đoàn 2 TQLC do Thiếu tá Cổ Tân Tinh Châu ''(Sinh năm 1931 tại Sài Gòn, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt, sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Đặc khu Rừng Sác)'' làm Tiểu đoàn trưởng.</ref> cướp quyền, truất phế các tướng lĩnh chủ chốt của cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963 là [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Lê Văn Kim]], [[Mai Hữu Xuân]]. Ông tự xưng là chủChủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tổng lệnh Quân đội. Ngày [[28 tháng 2]] năm 1964, ông phế truất Chính phủ [[Nguyễn Ngọc Thơ]] và lên làm Thủ tướng. Ngày [[16 tháng 8]] năm 1964, ông ban hành "[[Hiến chương Vũng Tàu]]", theo đó ông là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, kiêm [[Nguyên thủ quốc gia|Quốc trưởng]], kiêm [[Thủ tướng]] của [[Việt Nam Cộng hòa]], cũng như là Tổng tư lệnh, kiêm Tổng tham mưu trưởng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Uy quyền của ông lên đến mức tột đỉnh.
Khi cuộc [[Đảo chính]] ngày [[1 tháng 11]] năm [[1963]] nổ ra, ông đã án binh bất động và không tỏ rõ thái độ. Khi đảo chính thành công, ông tuyên bố ủng hộ [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam, 1963)|Hội đồng quân nhân cách mạng]]. Do đó, ông được Hội đồng Quân nhân Cách mạng thăng cấp [[Trung tướng]]. Trung tuần tháng 12 năm 1963, ông được chuyển về giữ chức Tư lệnh Quân đoàn I.
 
Tuy nhiên, ông đã vấp sự phản đối quyết liệt của các đảng phái và quần chúng. Các cuộc biểu tình chống cá nhân ông nổ ra khắp nơi. Ngày [[25 tháng 8]] năm 1964, hàng chục ngàn người kéo đến nơi ông làm việc, hô "Đả đảo Nguyễn Khánh!". Ông buộc phải ra gặp đoàn biểu tình và cũng hô "đả đảo". Trước áp lực dư luận, ông phải tuyên bố hủy bỏ "[[Hiến chương Vũng Tàu]]" và thành lập cơ chế "Tam đầu chế" (còn gọi là Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia) để chia quyền bớt cho các tướng [[Dương Văn Minh]] và [[Trần Thiện Khiêm]]. Đến tháng 9 cùng năm, vai trò Quốc trưởng của ông được giao cho tướng Dương Văn Minh. Ngày [[26 tháng 10]], [["Thượng Hội đồng Quốc gia (Việt Nam, 1964)|Thượng hội đồng Quốc gia]]" được triệu tập và bầu Kỹ sư [[Phan Khắc Sửu]] làm Quốc trưởng. Quốc trưởng cũng đã chỉ định ông [[Trần Văn Hương]] làm Thủ tướng. Cũng trong tháng này, ông cũng được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng cấp [[Đại tướng]] cùng với tướng Dương Văn Minh.
Nhưng chỉ sau đó 3 tháng, ngày [[30 tháng 1]] năm [[1964]], được sự ủng hộ của [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và "nhóm các tướng trẻ", ông đã thực hiện cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964|"Chỉnh lý"]] cướp quyền, truất phế các tướng lĩnh chủ chốt của cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963 là [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Lê Văn Kim]], [[Mai Hữu Xuân]]. Ông tự xưng là chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội. Ngày [[28 tháng 2]] năm 1964, ông phế truất Chính phủ [[Nguyễn Ngọc Thơ]] và lên làm Thủ tướng. Ngày [[16 tháng 8]] năm 1964, ông ban hành "[[Hiến chương Vũng Tàu]]", theo đó ông là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, kiêm [[Nguyên thủ quốc gia|Quốc trưởng]], kiêm [[Thủ tướng]] của [[Việt Nam Cộng hòa]], cũng như là Tổng tư lệnh, kiêm Tổng tham mưu trưởng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Uy quyền của ông lên đến mức tột đỉnh.
:* ''Tình hình miền Nam dưới sự quản lý của tướng Khánhông ngày càng loạn lạc: giai đoạn tướng Khánhông nắm quyền là giai đoạn nổ ra nhiều cuộc đảo chính nhất. Ngày [[13 tháng 9]] năm 1964, các tướng [[Dương Văn Đức]], [[Lâm Văn Phát]] kéo quân về [[Sài Gòn]] thị uy với tướng Khánh. Ngày [[19 tháng 2]] năm [[1965]], cuộc đảo chính do tướng [[Lâm Văn Phát]] và Đại tá [[Phạm Ngọc Thảo]] cầm đầu, suýt bắt được tướng Khánhông. Nhờ sự ủng hộ của nhóm các tướng trẻ, tướng Khánhông mới giữ được tình hình.
 
Tuy nhiên, ông đã vấp sự phản đối quyết liệt của các đảng phái và quần chúng. Các cuộc biểu tình chống cá nhân ông nổ ra khắp nơi. Ngày [[25 tháng 8]] năm 1964, hàng chục ngàn người kéo đến nơi ông làm việc, hô "Đả đảo Nguyễn Khánh!". Ông buộc phải ra gặp đoàn biểu tình và cũng hô "đả đảo". Trước áp lực dư luận, ông phải tuyên bố hủy bỏ "[[Hiến chương Vũng Tàu]]" và thành lập cơ chế "Tam đầu chế" (còn gọi là Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia) để chia quyền bớt cho các tướng [[Dương Văn Minh]] và [[Trần Thiện Khiêm]]. Đến tháng 9 cùng năm, vai trò Quốc trưởng của ông được giao cho tướng Dương Văn Minh. Ngày [[26 tháng 10]], [[Thượng Hội đồng Quốc gia (Việt Nam, 1964)|Thượng hội đồng Quốc gia]] được triệu tập và bầu Kỹ sư [[Phan Khắc Sửu]] là Quốc trưởng. Quốc trưởng cũng đã chỉ định ông [[Trần Văn Hương]] làm Thủ tướng. Cũng trong tháng này, ông cũng được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng cấp [[Đại tướng]] cùng với tướng Dương Văn Minh.
 
: Tình hình miền Nam dưới sự quản lý của tướng Khánh ngày càng loạn lạc: giai đoạn tướng Khánh nắm quyền là giai đoạn nổ ra nhiều cuộc đảo chính nhất. Ngày [[13 tháng 9]] năm 1964, các tướng [[Dương Văn Đức]], [[Lâm Văn Phát]] kéo quân về [[Sài Gòn]] thị uy với tướng Khánh. Ngày [[19 tháng 2]] năm [[1965]], cuộc đảo chính do tướng [[Lâm Văn Phát]] và Đại tá [[Phạm Ngọc Thảo]] cầm đầu, suýt bắt được tướng Khánh. Nhờ sự ủng hộ của nhóm các tướng trẻ, tướng Khánh mới giữ được tình hình.
 
==Năm 1965==
===Bị hạ bệ===
Do chủ trương đưa quân [[Mỹ]] vào tham chiến ở [[Việt Nam]] và lời tuyên bố ''"Quân đội là cha quốc gia!"''<ref>Hoành Linh Đỗ Mậu, ''Việt Nam máu lửa quê hương tôi''. Chương XVIII: Ba năm xáo trộn</ref><ref>Đặng Văn Nhâm, ''Bí Mật Hậu Trường Chính trị Miền Nam 1954-1975''. Quyển 3 (2001)</ref>, uy tín của ông càng lúc càng xuống thấp và ngày càng mất lòng dân. Nhóm các tướng trẻ, do đó, thống nhất truất phế ông. Ngày [[25 tháng 2]] năm 1965, ông phải nhận chức đại sứ lưu động ở nước ngoài. Trước khi đi, ông còn nắm theo một miếng đất và tuyên bố: ''"Tôi có mang theo nắm đất quê hương, một ngày nào đó nhất định sẽ trở về"''. Tuy nhiên, lời tuyên bố này cho đến khi qua đời ông vẫn không thể thực hiện được.
 
==Cuộc sống lưu vong==
:* ''Trong phim tài liệu "Heart & Mind" của đạo diễn [[Peter Davis]] do đài BBC Anh quốc sản xuất năm 1974 và đoạt [[giải Oscar]] cho phim tài liệu hay nhất năm 1975, Nguyễn Khánh cho biết chính Đại tướng [[Maxwell D. Taylor]] của Mỹ đã đích thân ra lệnh cho ông ta phải rời khỏi Việt Nam. Thậm chí, Nguyễn Khánh còn lén ghi âm lại lệnh "lưu đày không chính thức" này của Taylor.
 
Sau khi rời [[Việt Nam]], ông ở [[Hoa Kỳ|Mỹ]] một thời gian ngắn. Từ năm [[1966]], ông sang [[Pháp]] bằng trợ cấp dành cho những người từng phục vụ quân đội Pháp ở [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]]. Sau năm [[1975]], ông định cư tại Mỹ, sinh sống bằng nghề kinh doanh xăng dầu và sửa chữa ôtô.<ref name=cand1 />
 
Ngày [[2 tháng 1]] năm [[2005]], tại Đại hội quốc dân lần 2 ([[California]], Mỹ), ông được bầu làm Quốc trưởng của [["Chính phủ lâmLâm thời Việt Nam Tự do]]" ở tuổi gần 80.
:* ''Trong cuộc họp báo ngày 17 tháng 8 năm 2008 tại thành phố Garden Grove (Nam California, Mỹ), với danh nghĩa Quốc trưởng [["Chính phủ lâmLâm thời Việt Nam Tự do]]", Nguyễn Khánh tuyên bố "''sẽ tự giải tán Chính phủ ngay khi một Liên Minh Dân tộc, với sứ mạng bảo vệ chủ quyền đất nước, giành lại tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam được thành lập''".<ref>"Chính phủ Việt Nam Tự Do sẽ tự giải tán để vận động Liên Minh Dân tộc cứu nguy Đất Nước" - Dantoc.net</ref>
 
Sau gần 50 năm tha hương ông mất ngày ngày [[11 tháng 1]] năm 2013 tại San Jose, California, Hoa kỳ. Hưởng thọ 86 tuổi.
: Trong cuộc họp báo ngày 17 tháng 8 năm 2008 tại thành phố Garden Grove (Nam California, Mỹ), với danh nghĩa Quốc trưởng [[Chính phủ lâm thời Việt Nam Tự do]], Nguyễn Khánh tuyên bố "''sẽ tự giải tán Chính phủ ngay khi một Liên Minh Dân tộc, với sứ mạng bảo vệ chủ quyền đất nước, giành lại tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam được thành lập''".<ref>"Chính phủ Việt Nam Tự Do sẽ tự giải tán để vận động Liên Minh Dân tộc cứu nguy Đất Nước" - Dantoc.net</ref>
 
Sau gần 50 năm tha hương ông mất ngày ngày [[11 tháng 1]] năm 2013 tại San Jose, California, Hoa kỳ. Hưởng thọ 86 tuổi.
 
==Những nhận xét==
Về đời tư, ông được xem là người con có hiếu nghĩa. Do mẹ ruột là bà Phạm Lệ Trân mất sớm, ông được sự chăm sóc bởi người mẹ kế là nghệ sĩ [[Phùng Há]] và chịu nhiều ảnh hưởng của bà. Sau năm 1975, ông ba lần đến cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại Mỹ để xin về Việt Nam (vào các năm 1989, 1997, 1998) để phụng dưỡng bà nhưng đều bị từ chối.<ref name=cand1>[http://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Bo-mat-that-cua-Quoc-truong-Nguyen-Khanh---nguoi-bi-ten-trum-khung-bo-Nguyen-Huu-Chanh-loi-dung-19658/]
</ref>
 
==Gia đình==
* Thân phụ: Cụ Nguyễn Bửu
* Thân mẫu: Cụ Phạm Lệ Trân
 
==Chú thích==
{{thamTham khảo|2}}
 
==Tham khảo==
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa''. Trang 99-103.
 
==Liên kết==
 
* [http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam-f2fe66-interview-with-nguyen-khanh-1981 Phỏng vấn Nguyễn Khánh, 1981]
 
[[Thể loại:NgườiSinh Trà Vinh1927]]
 
[[Thể loại:Mất 2013]]
{{thời gian sống|1927|2013}}
[[Thể loại:NhàĐại ngoại giaotướng Việt Nam Cộng hòa]]
 
[[Thể loại:Nguyên thủ Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:ĐạiNgười tướngMỹ gốc Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Trà Vinh]]
[[Thể loại:Nhà ngoại giao Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Việt di cư tới Mỹ]]