Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Erwin Rommel”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tập tin AfricaMap2.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài viết vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Hedwig in Washington vì lý do: per c:Commons:Deletion requests/File:AfricaMap2.jpg.
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 21:
'''Erwin Johannes Eugen Rommel''' ({{Audio|De-Erwin_Rommel-pronunciation.ogg|<small>nghe</small>}}) ([[15 tháng 11]] năm [[1891]] – [[14 tháng 10]] năm [[1944]]) (còn được biết đến với tên '''Cáo Sa mạc''', ''Wüstenfuchs'', {{Audio|De-Wüstenfuchs-pronunciation.ogg|<small>nghe</small>}}), là một trong những vị [[Nguyên soái|Thống chế]] lừng danh nhất của nước [[Đức Quốc xã|Đức]] trong cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh thế giới lần thứ hai]]. Ông là một trong những bậc thầy vĩ đại về mưu mẹo trong [[chiến tranh]], có lòng quả cảm.<ref name="Fraser3">[[David William Fraser|David Fraser]], ''Knight's cross: a life of Field Marshal Erwin Rommel'', trang 3</ref> Ông phục vụ cho [[Adolf Hitler]], và dù ông là một chiến binh xuất sắc của Đức Quốc xã, nhưng ông không phải là đảng viên của Đảng Quốc xã.<ref name="Reuth136">Ralf Georg Reuth, ''Rommel: the end of a legend'', trang 136</ref> Vì tinh thần thượng võ cao đẹp của ông, đến cả người [[Anh]] cũng phải bội phục ông, dù ông đã đánh nhau với họ trong nhiều trận đánh quan trọng tại [[Bắc Phi]].<ref name="GeorgeReuth1va7">Ralf Georg Reuth, ''Rommel: the end of a legend'', các trang 1-7.</ref> Không những thế, cho đến nay người [[Hoa Kỳ|Mỹ]] vẫn coi ông là một lãnh đạo mẫu mực.<ref name="DennisShowalter12"/>
 
Là một Sĩ quan nổi tiếng trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Rommel gặp gỡ lãnh tụ [[Adolf Hitler]] lần đầu tiên vào năm [[1934]]. Ông được tặng thưởng huân chương [[Pour le Mérite]] vì những chiến công của ông ở [[mặt trận Ý (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận Ý]]. Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh thế giới lần thứ hai]], Rommel nổi bật lên trong vai trò chỉ huy của [[Sư đoàn Thiết giáp số 7 (Đức)|Sư đoàn Ma]] trong [[Trận chiến nước Pháp|cuộc tấn công Pháp năm 1940]] của nước Đức Quốc xã. Tiếp đó, Rommel nắm giữ vai trò chỉ huy liên quân [[Ý]] - Đức tại [[châu Phi]], dù phải đối mặt với quân địch đông đảo hơn những nhờ tài nghệ của mình ông đã gặt hái những chiến thắng vẻ vang.<ref name="ReferenceA">David Fraser, ''Knight's cross: a life of Field Marshal Erwin Rommel'', trang 331</ref> Ông đã thực hiện thành công vai trò thống lĩnh Quân đội phe Trục ở Phi châu, đến nổinỗi nó mang lại cho ông biệt danh ''Cáo Sa mạc'' (''Wüstenfuchs'') và được công nhận rộng rãi là chỉ huy quân sự giỏi nhất ở địa hình sa mạc.<ref>Hakim, ''War, Peace and all that Jazz'', p. {{page number|date=tháng 12 năm 2008}}</ref> Sau đó, ông chỉ huy lực lượng phòng thủ của Đức trong [[trận Normandie]].
 
Erwin Rommel là một chỉ huy hào hiệp và nhân đức, ngược hẳn với hình tượng chung về [[Đức Quốc xã|Phát xít Đức]]. Quân đoàn châu Phi (''[[Quân đoàn châu Phi của Đức|Afrikakorps]]'') của ông hoàn toàn không bị cáo buộc bất cứ tội ác chiến tranh nào. Ngoài ra, ông còn nhiều lần cứng rắn từ chối những lệnh yêu cầu ông phải hành quyết lính và [[người Do Thái]] bị bắt giữ ở mọi mặt trận mà ông chỉ huy.<ref>AT ROMMEL'S SIDE: The Lost Letters of Hans-Joachim Schraepler Publisher: Frontline Books (tháng 9 năm 2009) Ngôn ngữ: English ISBN 1-84832-538-X ISBN 978-1-84832-538-8</ref> Dù thế, trong khắp nước Đức Quốc xã thì không người lính nào có oai danh lẫy lừng như ông.<ref>Ralf Georg Reuth, ''Rommel: the end of a legend'', trang 167</ref> Ông trở thành một nhân vật trung tâm trong sử sách [[quân sự]] châu Âu hiện đại.<ref name="DennisShowalter12">[[Dennis Showalter|Dennis E. Showalter]], ''Patton and Rommel: Men of War in the Twentieth Century'', các trang 1-2.</ref>