Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhĩ Chu Thiên Quang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: tên tựtên tự using AWB
n replaced: thủ lãnh → thủ lĩnh (4) using AWB
Dòng 12:
==Trấn áp khởi nghĩa Quan Tây==
===Trấn áp Mặc Kỳ Sửu Nô===
Mùa hạ năm Kiến Nghĩa đầu tiên (528), thủ lãnhlĩnh nghĩa quân [[Mặc Kỳ Sửu Nô]] xưng đế, triều đình lo lắng, đến nay mới lấy Thiên Quang làm Sứ trì tiết, Đô đốc Ung, Kỳ 2 châu chư quân sự, Phiếu kỵ đại tướng quân, Ung Châu thứ sử, soái bọn Đại đô đốc, Vũ vệ tướng quân [[Hạ Bạt Nhạc]], Đại đô đốc [[Hầu Mạc Trần Duyệt]] trấn áp khởi nghĩa.
 
Thiên Quang ban đầu chỉ được giao 1000 binh sĩ, có chiếu lấy ngựa của dân chúng dọc đường từ kinh thành về phía tây cấp cho ông. Khi ấy Nghĩa quân người Thục ở Xích Thủy thuộc Đông Ung Châu chẹn đường, triều đình có chiếu cho Thị trung [[Dương Khản]] đi trước khuyên dụ, còn muốn trưng thu ngựa của họ. Khản đã úy lạo, nhưng nghĩa quân vẫn dùng dằng không chịu giải tán. Thiên Quang bèn tiến vào Đồng Quan đánh phá nghĩa quân, chọn nhưng kẻ tráng kiện ép gia nhập quân đội, thu hết ngựa của họ. Đến Ung Châu, Thiên Quang thu thuế của dân bằng ngựa, có được hơn vạn thớt; nhưng ông cho rằng binh sĩ vẫn quá ít, nên dừng lại không tiến. Vinh khiển trách, phạt Thiên Quang 100 trượng, rồi giao cho ông thêm 2000 binh sĩ. Thiên Quang lệnh Hạ Bạt Nhạc soái ngàn kỵ binh đi trước, đến phía tây Trường Thành tại ranh giới Kỳ Châu, thì gặp tướng lãnh nghĩa quân là hành đài Úy Trì Bồ Tát. Nhạc đánh bại nghĩa quân và bắt sống Bồ Tát, thu hàng 3000 kỵ binh, hơn vạn bộ binh.
Dòng 23:
Tướng lãnh nghĩa quân là Hành đài vạn sĩ [[Mặc Kỳ Đạo Lạc]] soái 6000 người chạy vào núi; khi ấy Cao Bình đại hạn, Thiên Quang cho rằng ngựa thiếu cỏ, bèn lui lại 50 dặm phía đông thành, nghỉ quân chăn ngựa. Vì thế nghĩa quân ở các châu Kính, Bân, 2 Hạ, về phía bắc đến Linh Châu đều quy hàng. Thiên Quang sai Đô đốc Trưởng Tôn Tà Lợi làm Hành Nguyên Châu sự, soái 200 người trấn thủ Nguyên Châu. Đạo Lạc chiêu dụ người trong thành đến tập kích, giết Tà Lợi cùng bộ hạ của ông ta. Thiên Quang và bọn Nhạc, Duyệt vội đến, Đạo Lạc ra thành chống cự, không lâu thì lui; quan quân đuổi giết hơn ngàn người, Đạo Lạc lại trở vào núi. Thiên Quang giành lại thành, sai sứ úy dụ, nhưng Đạo Lạc không theo, soái nghĩa quân dựa vào Khiên Đồn Sơn ở phía tây, giữ nơi hiểm yếu mà cố thủ. Nhĩ Chu Vinh trách Thiên Quang để mất Tà Lợi, không bắt được Đạo Lạc, sai sứ phạt 100 trượng, làm chiếu giáng làm Tán kỵ thường thị, Phủ quân tướng quân, Ung Châu thứ sử, lùi tước làm hầu.
 
Thiên Quang và bọn Nhạc, Duyệt tiến đánh Khiên Đồn, Thiên Quang đích thân tấn công Đạo Lạc; Đạo Lạc thua chạy, đưa vài ngàn kỵ binh thoát được vào Lũng, đầu hàng thủ lãnhlĩnh nghĩa quân ở Lược Dương là [[Vương Khánh Vân (Bắc Ngụy)|Vương Khánh Vân]]. Khánh Vân cho rằng Đạo Lạc kiêu quả tuyệt luân, rất vui, cho rằng việc lớn có thể xong; bèn tự xưng hoàng đế, lấy Đạo Lạc làm Đại tướng quân. Thiên Quang soái chư quân vào Lũng, tiến đánh thành Thủy Lạc của Khánh Vân. Khánh Vân, Đạo Lạc ra thành chống cự, Thiên Quang bắn trúng cánh tay của Đạo Lạc, khiến ông ta lui chạy. Quan quân phá thành đông, nghĩa quân đều chạy sang thành tây. Trong thành không có nước, mọi người khát khô; có nghĩa quân ra hàng, nói Khánh Vân và Đạo Lạc muốn ra ngoài tử chiến. Thiên Quang sợ bọn thủ lãnhlĩnh nghĩa quân chạy thoát thì tai họa không thôi, bèn sai sứ khuyên hàng Khánh Vân, cho ông ta một đêm suy nghĩ. Bọn Khánh Vân dự định trong đêm xông ra, nên nhanh chóng đồng ý. Nhân lúc nghĩa quân không đề phòng, Thiên Quang bí mật cho quan quân làm rào gỗ, đều dài 7 thước; vào lúc hoàng hôn, bố trí người ngựa hình thành trận thế bao vây, dựng rào gỗ chung quanh thành, ở đây đường sá trọng yếu thì dựng nhiều lớp hơn; trong rào còn có binh sĩ mai phục, đề phòng nghĩa quân xông qua; ngoài ra, ở phía bắc thành còn chuẩn bị sẵn thang dài. Đêm ấy, Khánh Vân, Đạo Lạc quả nhiên xông ra, giục ngựa tiến lên, không nhận thấy rào, vướng rào ngã nhào, phục binh nổi dậy, đều bị bắt sống. Tàn dư nghĩa quân ra cửa nam, bị rào chặn lại. Quan quân dựng thang vào thành ở phía bắc, khiến nghĩa quân hết đường, đành phải đầu hàng. Đến khi trời sáng, quan quân thu hết binh khí của nghĩa quân, bọn Thiên Quang, Nhạc, Duyệt bàn bạc, đem chôn sống tất cả nghĩa quân, hơn 17000 người, chia nhau tài sản, gia quyến của họ. Vì thế nghĩa quân các nơi 3 Tần, Hà, Vị, Qua, Lương, Thiện Thiện đều đến quy hàng. Thiên Quang dừng quân ở Lược Dương, có chiếu cho ông khôi phục chức tước cũ, lại được gia Thị trung, Nghi đồng tam tư, tăng ấp đến 3000 hộ.
 
===Trấn áp các lực lượng khác===
Dòng 30:
Tướng cũ của Mặc Kỳ Sửu Nô là [[Túc Cần Minh Đạt]] đã đầu hàng ở Bình Lương, rồi lại chạy về phía bắc, tập hợp lực lượng để tái khởi nghĩa, tấn công một hàng tướng khác là Sất Kiền Kỳ Lân, hòng thôn tính lực lượng của ông ta. Kỳ Lân cầu cứu Thiên Quang, ông sai Hạ Bạt Nhạc đánh dẹp. Nhạc chưa đến thì Minh Đạt đã chạy về Hạ Châu ở phía đông. Đúng lúc này, Nhạc nghe tin Nhĩ Chu Vinh bị Hiếu Trang đế sát hại (530), nên không đuổi theo, mà quay về Kính Châu để đợi Thiên Quang. Sang năm (531), Thiên Quang điều quân bắt được Minh Đạt, giải về Lạc Dương chém đầu.
 
Trong thời gian liên quân họ Nhĩ Chu tranh chấp với [[Cao Hoan]] (531 – 532), các cánh nghĩa quân của thủ lãnhlĩnh tộc Phí Dã Đầu là Hột Đậu Lăng Y Lợi, Mặc Kỳ Thụ Lạc Kiền chiếm cứ khu vực Hà Tây, ở phía bắc lãnh địa của Thiên Quang. Thiên Quang không thể chia quân đánh dẹp, chỉ có thể phòng bị bọn họ.
 
==Tham gia phế - lập và bại vong==