Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Khai Sáng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ahihi456 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n →‎Lịch sử triết học Khai sáng: replaced: Lí tính → Lý tính (2) using AWB
Dòng 10:
Triết học Khai sáng là một phong trào quan trọng của triết học thế kỷ 18, với trọng tâm là niềm tin và lòng mộ đạo. [[George Berkeley]], một trong những nhà triết học nổi bật của phong trào này, đã cố gắng chứng minh một cách hợp lý về sự tồn tại của một thực thể tối cao. Bên cạnh các học thuyết [[chính trị]], lòng mộ đạo và niềm tin trong thời kỳ này là một phần không thể thiếu của sự khám phá về [[triết học tự nhiên]] và [[luân lý học]]. Tuy nhiên, các nhà triết học Khai sáng nổi bật như [[Thomas Paine]], [[Voltaire]], [[Jean-Jacques Rousseau]], [[Immanuel Kant]] và [[David Hume]] đặt vấn đề và tấn công các thể chế hiện có của cả [[Giáo hội]] và [[Nhà nước]]. Do chỉ trích chính phủ và giáo hội Pháp, nhà triết học vĩ đại Voltaire đã hai lần chịu kiếp tù đày.<ref name="Jayapalan171">N. Jayapalan, ''Comprehensive History of Political Thought'', trang 171</ref> Thế kỷ 19 còn chứng kiến sự tiếp tục nổi lên của các tư tưởng [[chủ nghĩa kinh nghiệm|duy nghiệm]] và ứng dụng của chúng trong [[kinh tế chính trị]], [[chính phủ]] và các khoa học như [[vật lý học]], [[hóa học]], và [[sinh học]].
 
Thời kỳ Khai sáng nối tiếp [[Thời đại tính]] (nếu được coi là một thời kỳ ngắn) hay thời [[Phục Hưng|Phục hưng]] và [[phong trào Kháng cách]] (nếu được coi là một thời đại dài). Sau thời Khai sáng là thời kì [[Chủ nghĩa lãng mạn|Lãng mạn]]. Từ năm [[1789]], phong trào [[Cách mạng Pháp]] bùng nổ, các tác phẩm của Voltaire và Rousseau ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân Pháp. Voltaire ủng hộ các văn sĩ phê phán Giáo hội và Quốc vương Pháp đương thời.<ref name="Jayapalan171"/> Ông viết bài thơ ca ngợi [[chủ nghĩa anh hùng]], những cuốn sử xuất sắc, v.v...<ref>Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, ''Life of Frederick the Great'', trang 45</ref> Ông cũng coi trọng quyền [[quyền công dân|công dân]] thế giới, đề cao một chính quyền trung ương dựa trên nền tảng của sự tự do. Rousseau đã kêu gọi đưa loài người trở về với tự nhiên, bị Voltaire bỉ bác.<ref>N. Jayapalan, ''Comprehensive History of Political Thought'', trang 173</ref>
 
[[Tập tin:Adolph-von-Menzel-Tafelrunde.jpg|nhỏ|Bức Tranh ''Die Tafelrunde'' của họa sĩ [[Adolph von Menzel]]. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và khác viện sĩ [[Viện Hàn lâm Khoa học Berlin]].]]
 
Các ranh giới của thời Khai sáng phủ phần lớn thế kỷ 17, dù một số người gọi thời kỳ trước đó là "[[Thời đại Lý tính]]" (''The Age of Reason'').
 
Châu Âu đã bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh tôn giáo; khi hòa bình đã được khôi phục, sau [[Hiệp ước Westphalia]] và cuộc [[Nội chiến Anh]], một cuộc nổi dậy của trí thức đã lật đổ niềm tin được chấp nhận rộng rãi rằng những điều huyền bí và mặc khải là những nguồn chính yếu cho tri thức và học vấn—người ta cho đây là điều đã khơi mào cho sự bất ổn định về chính trị. Thay vào đó, (theo những người chia đôi hai thời kỳ), Thời đại tính tìm cách thiết lập một nền triết học tiên đề và chủ nghĩa chuyên chế để làm nền móng cho tri thức và sự ổn định. Trong các tác phẩm của [[Michel de Montaigne]] và [[René Descartes]], [[nhận thức luận]] được dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan và sự tìm hiểu sâu về bản chất của "tri thức". Mục đích của một hệ thống triết học dựa trên các tiên đề hiển nhiên đã đạt đến đỉnh cao với tác phẩm ''[[Luân lý học, Spinoza|Luân lý học]] của [[Baruch Spinoza]], cuốn sách đào sâu một cách nhìn [[phiến thần]] về vũ trụ, nơi Chúa trời và Thiên nhiên là một. Tư tưởng này sau đó đã trở thành trung tâm cho thời Khai sáng, từ [[Newton]] tới [[Thomas Jefferson|Jefferson]].''
Các tư tưởng của [[Blaise Pascal|Pascal]], [[Gottfried Leibniz|Leibniz]], [[Galileo Galilei|Galileo]] và các triết gia khác của thời kỳ trước cũng đóng góp và có ảnh hưởng lớn đến thời Khai sáng; ví dụ, theo E. Cassirer, tác phẩm On Wisdom của [[Gottfried Leibniz|Leibniz]] đã "... chỉ ra khái niệm trung tâm của thời Khai sáng và phác ra khung lý thuyết của nó" (Cassirer 1979: 121–123). Có một làn sóng các thay đổi trong tư duy châu Âu, điển hình là [[triết học tự nhiên]] của Newton, đó là sự kết hợp giữa ngành toán học của các chứng minh bằng tiên đề với ngành cơ học của các quan sát vật lý, một hệ thống gắn kết của các phán đoán kiểm chứng được, nó đã bắt nhịp cho những gì nối tiếp ''[[Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên|Philosophiae Naturalis Principia Mathematica]]'' của Newton vào thế kỷ sau.