Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tính Không”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tính Không trong Phật giáo Tây Tạng: replaced: chân lí → chân lý (3), Chân lí → Chân lý (2) using AWB
n replaced: lí → lý (3) using AWB
Dòng 19:
 
== Tính Không trong Phật giáo Tây Tạng ==
Tại Tây Tạng, quan điểm tính Không cũng đóng một vai trò quan trọng trong khi truyền giáo Trung quán qua xứ này. Luận sư Ấn Độ [[Kamalaśīla|Liên Hoa Giới]] (sa. ''kamalaśīla'') và Hòa thượng Đại Thừa, đại diện của Thiền tông Trung Quốc tranh luận nhau, liệu con đường giác ngộ chân lý phải qua từng cấp bậc ([[Tiệm ngộ]]) hay chỉ là một trực nhận bất ngờ ([[Đốn ngộ]]). Cuối cùng, tại Tây Tạng, người ta chấp nhận con đường "từng cấp" và vì thế kể từ khoảng thế kỉ 11, người ta bắt đầu thiết lập nhiều phép tu và quan niệm triết học về tính Không, còn được ghi lại trong những tác phẩm gọi chung là [[Tất-đàn-đa]] (sa. ''siddhānta''). Tất cả mọi trường phái của Trung quán đều lấy quan điểm "hai chân lý" của Long Thụ làm gốc:
* Chân lý quy ước (sa. ''saṃvṛti-satya''), có giá trị trong đời sống bình thường, có giá trị cho các hiện tượng do duyên khởi tạo nên, nhưng chúng không tồn tại thật sự;
* Chân lý tuyệt đối (sa. ''paramārthasatya''), là tính Không, là thể "nằm ngoài tồn tại hay không tồn tại", là thể không thể nghĩ bàn, chỉ có thể thông đạt được qua sự trực nhận.
Dòng 31:
:Long Thụ ứng đáp kháng biện này thế nào? (''Trung quán luận'' XXIV.20)
::''Nếu tất cả những thứ [hiện tượng] này không trống rỗng, thì không có sinh, không có diệt; từ đó có thể suy ra rằng, đối với các ngươi [đại biểu của học thuyết tồn tại bởi tự tính], [[Tứ diệu đế]] không tồn tại.''
:Long Thụ đảo ngược luận điểm của đại biểu chấp vào tồn tại trên cơ sở tự tính thành luận điểm đối nghịch: Chính trong một hệ thống không thừa nhận Tính không của hiện tượng thì hoàn toàn không có hiện tượng nào có thể tồn tại. Sư còn nói thêm là đối thủ không hiểu ý nghĩa Tính không cách tuyệt một tự tính (''emptiness of inherent existence''). Như vậy, một hệ thống có quan điểm là các hiện tượng trống rỗng, vô tự tính — hệ thống này có thâm ý gì với lời trần thuật này? Cơ bản thì '''Tính không có nghĩa là Duyên khởi'''. Để chứng minh Tính không cách tuyệt một tự tính của các hiện tượng, Long Thụ đưa ra luận điểm là chúng xuất hiện trên cơ sở duyên khởi. Để chứng minh Tính không, sư không nói các hiện tượng không có khả năng thực hiện những cơ năng của chúng. Hoàn toàn ngược lại: Sư thừa nhận nguyên lý duyên khởi và lấy nó làm cơ sở để chứng minh Tính không cách cách tuyệt một tự tính của các hiện tượng. Các hệ thống khác không quan niệm một Tính không cách tuyệt một tự tính; mà hơn nữa, họ quan niệm là các hiện tượng tồn tại trên cơ sở tự tính. Nhưng nếu quả thật như vậy thì các hiện tượng phải tồn tại một cách tự lập, tự khởi không tùy thuộc — và sự việc này đối nghịch với tính hệ thuộc vào nhân duyên của chúng. Theo đó thì những hệ thống này sa lạc vào mâu thuẫn, không đảm bảo được nguyên lý duyên khởi. Nhưng, nếu nguyên lý duyên khởi không được đảm bảo nữa thì tất cả những quy định của các hiện tượng trong vòng sinh tử và niết-bàn — bất cứ tốt, xấu — đều mất giá trị. Thế nhưng, tất cả các trường phái đều nhấn mạnh giáo duyên khởi; họ xác nhận là những hiện tượng có ích và tai hại đều có những nguyên nhân và hậu quả đặc định. Họ không thể nào phủ định sự việc này được. Vì những sự thật hiển hiện này mà họ cũng nên xác nhận rõ ràng Tính không cách tuyệt một tự tính của các hiện tượng.
:Thế nào là "Trung"? Trung là trung dung, nằm ngoài hai cực biên trường tồn và đoạn diệt. [Như thế thì nó đích thật là khoảng giữa, nơi tồn tại của các hiện tượng.] Kinh luận trình bày chính xác ý nghĩa Trung dung như nó đích thật là được gọi là kinh luận của Trung đạo; và một tâm thức nhận biết được tính Trung dung này được gọi là Trung quán...
</div>
Dòng 43:
{{Viết tắt Phật học}}
 
[[Thể loại:Triết Phật giáo]]
[[Thể loại:Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo]]
[[Thể loại:Trung quán tông]]