Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Mạnh (Trung tướng Việt Nam Cộng hòa)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n từ cũ, replaced: cải danh → đổi tên (3)
Dòng 22:
 
===Quân đội Liên hiệp Pháp===
Trung tuần tháng 9 năm 1948, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng [[Bảo Đại]], ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 41/200.248. Theo học khóa 1 [[Bảo Đại]] (sau cảiđổi danhtên thành khóa Phan Bội Châu tại trường Võ Bị Quốc gia Huế, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1948. Ngày 1 tháng 6 năm 1949 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường, ông được chọn về đơn vị Bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng. Năm 1951, ông được làm Đại đội trưởng. Thời gian này, ông chỉ huy đơn vị tham gia nhiều cuộc hành quân trên khắp các mặt trận ở miền Bắc.
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Dòng 28:
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Tháng 3 năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] chuyển về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Trưởng phòng 3. cuối tháng tháng 10 cùng năm, Thủ tướng Diệm cảiđổi danhtên Quân đội Quốc gia thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được sát nhập sang phục vụ cơ cấu quân đội mới và vẫn giữ nguyên chức vụ cũ. Tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp [[Trung tá]] chuyển ra Cao nguyên Trung phần giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn II<ref>Quân đoàn II được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1958 tại Ban Mê Thuột, ban đầu đặt bản doanh tại đây, về sau di chuyển lên Pleiku.</ref> thay thế Trung tá '''Trang Văn Chính'''.<ref>Trung tá '''Trang Văn Chính''' (SN 1925 tại Trà Vinh, tốt nghiệp trường Sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu, sau cùng là Đại tá Cục trưởng Cục An Ninh Quân đội).</ref> Tháng 5 năm 1959, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn II lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Sau đó ông được chuyển về tùng sự ở Khối Quân huấn tại Bộ Tổng Tham mưu. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm. Tháng 1 năm 1962, ông được cử làm Chánh chủ khảo kỳ thi mãn khóa 2 Nhân vị Sĩ quan Hiện dịch Đặc biệt tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang. Khóa 2 Nhân vị Sĩ quan Đặc biệt hiện dịch Nha Trang, khai giảng ngày 27 tháng 2 năm 1961, mãn khóa ngày 31 tháng 1 năm 1962. Tốt nghiệp khóa này, về sau có nhiều sĩ quan cấp tá chỉ huy xuất sắc, tiêu biểu là Đại tá [[Hồ Ngọc Cẩn]], chức vụ sau cùng là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện.</ref>
 
Tháng 2 năm 1964, sau [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964]] của tướng [[Nguyễn Khánh]], ông được điều đi giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III & Vùng 3 Chiến Thuật. Đầu Tháng 10 cùng năm, bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Trung tá [[Đồng Văn Khuyên]]<ref>Trung tá [[Đồng Văn Khuyên]] (SN 1927, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K1, sau cùng là Tổng tham mưu phó kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận.</ref>
 
Tháng 5 năm 1965, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh đầu tiên Sư đoàn 10 Bộ binh<ref>Sư đoàn 10 Bộ binh được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1965 tại Long Khánh, đầu năm 1967 cảiđổi danhtên thành Sư đoàn 18 Bộ binh.</ref> tân lập tại Xuân Lộc, Long Khánh. Ba tháng sau, ngày 20 tháng 8, ông chuyển ra Cao nguyên Trung phần giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, (hoán chuyển nhiệm vụ với Chuẩn tướng [[Lữ Mộng Lan|Lữ Lan]] về làm Tư lệnh Sư đoàn 10). Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
 
Tháng 11 năm 1966, ông được chỉ định chức vụ Quyền Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật thay thế Trung tướng [[Đặng Văn Quang]].<ref>Trung tướng [[Đặng Văn Quang]] được chuyển về Trung ương và được đề cử vào Nội các Chính phủ Thủ tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] làm Tổng uỷ viên Kế hoạch.</ref> Ngày 4 tháng 2 năm 1967, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]] và chính thức được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật.