Khác biệt giữa bản sửa đổi của “HMS Foxhound (H69)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Lịch sử hoạt động: AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:20.5060504
Dòng 5:
{{Infobox ship image
|Ship image= [[Tập tin:HMS Foxhound 1942 IWM FL 13264.jpg|300px]]
|Ship caption= Tàu khu trục HMS ''Foxhound'' (H69) vào [[tháng 12]], năm [[1942]]
}}
{{Infobox ship career
Dòng 16:
|Ship builder=
|Ship original cost=
|Ship laid down= [[21 tháng 8]], năm [[1933]]
|Ship launched= [[12 tháng 10]], năm [[1934]]
|Ship sponsor=
|Ship completed=
|Ship acquired=
|Ship commissioned= [[6 tháng 6]], năm [[1935]]
|Ship recommissioned=
|Ship decommissioned= [[8 tháng 2]], năm [[1944]]
|Ship in service=
|Ship out of service=
Dòng 40:
|Ship name= HMCS ''Qu'Appelle'' (H69)
|Ship namesake= [[sông Qu'Appelle]]
|Ship commissioned= [[8 tháng 2]], năm [[1944]]
|Ship decommissioned= [[27 tháng 5]], năm [[1946]]
|Ship fate= Bị tháo dỡ
}}
Dòng 73:
Lớp tàu khu trục F có đặc tính tương tự như [[Lớp tàu khu trục C và D]] dẫn trước vào năm [[1931]], nhưng có dáng lườn tàu và [[cầu tàu]] được cải tiến, được bố trí ba phòng [[nồi hơi]] thay vì hai, và pháo [[hải pháo 4,7 inch QF Mark IX|QF {{convert|4,7|in|mm}}]] có thể nâng đến góc 40° thay vì 30° như ở lớp trước.
 
''Foxhound'' được đặt hàng trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1932. Nó được đặt lườn vào ngày [[21 tháng 8]], năm [[1933]] tại xưởng tàu của hãng [[John Brown Shipbuilding & Engineering Company Ltd.]] ở [[Clydebank]] [[Birkenhead]]; được hạ thủy vào ngày [[12 tháng 10]], năm [[1934]] và hoàn tất vào ngày [[6 tháng 6]], năm [[1935]].<ref>{{Harvnb|Whitley|1988|p=105}}</ref>
 
== Lịch sử hoạt động ==
''Foxhound'' được cải biến thành một tàu hộ tống tầm xa từ [[tháng 8]], năm [[1943]]; và sau khi hoàn tất, nó xuất biên chế khỏi Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày [[8 tháng 2]], năm [[1944]] để được chuyển cho [[Canada]]; nhập biên chế [[Hải quân Hoàng gia Canada]] cùng ngày hôm đó dưới tên gọi HMCS ''Qu'Appelle'' (H69).<ref>{{Harvnb|English|1993|p=85}}</ref><ref>{{Harvnb|Whitley|1988|p=29}}</ref>
 
''Qu'Appelle'' tham gia Đội hộ tống 12 vào [[tháng 6]], năm [[1944]] trong vai trò bảo vệ tàu bè khỏi các cuộc tấn công cuộc Đức trong cuộc [[Đổ bộ Normandy]].<ref>{{Harvnb|Rohwer|2005|p=283}}</ref> Nó đã cùng các tàu khu trục [[HMCS Saskatchewan (H70)|''Saskatchewan'']], [[HMCS Skeena (D59)|''Skeena'']] và [[HMCS Restigouche (H00)|''Restigouche'']] tấn công các tàu tuần tra Đức ngoài khơi [[Brest, Pháp]] trong [[Trận Pierre Noires]], nơi chiếc tàu tuần tra Đức V715 bị đánh chìm.<ref>{{Harvnb|Rohwer|2005|p=290}}</ref> Vào ngày [[11 tháng 8]], ''Qu'Appelle'' cùng với ''Restigouche'', ''Skeena'' và [[HMCS Assiniboine (I18)|''Assiniboine'']] được lệnh ngăn chặn các tàu bè Đức thoát ra khỏi các cảng [[Biscay]]. Trong khi đánh chìm hai tàu đánh cá vũ trang, nó bị hư hại do va chạm với ''Skeena'' và phải được sửa chữa cho đến hết [[tháng 9]], khi nó gia nhập Đội hộ tống 11 để tuần tra ngoài khơi [[Iceland]].<ref name="naval-history.net">{{chú thích web | url= http://www.naval-history.net/xGM-Chrono-10DD-23F-Foxhound.htm#quappelle | title=HMS ''Foxhound'', later HCMS ''Qu'Appelle'' destroyer | first=Geoffrey B. | last=Mason | work=Service Histories of Royal Navy Warships in World War II | year=2003| accessdate=ngày 2 tháng 8 năm 2012}}</ref>
 
Sau khi chiến tranh kết thúc, ''Qu'Appelle'' được xuất biên chế khỏi Hải quân Hoàng gia Canada vào ngày [[27 tháng 5]], năm [[1946]].
 
[[Tập tin:Hmcs Qu'appelle FL17788.jpg|300px|HMCS ''Qu'Appelle'']]