Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Chính Kỷ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Lý ChánhChính KỉKỷ''' ([[chữ Hán]]: 李正己, [[bính âm]]: Li Zhengji, [[733]] - [[781]]), còn dịch là '''Lý Chánh Kỉ''', nguyên tên là '''Lý Hoài Ngọc''' (李懷玉), người Cao Ly, là Tiết độ sứ Bình Lư (sau là Tri Thanh)<ref>Trị sở nay thuộc [[Thái An]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]]</ref> dưới triều [[nhà Đường]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông ủng hộ người anh họ là [[Hầu Hi Dật]] làm Tiết độ sứ ở Bình Lư năm [[758]], sau đó lĩnh chức Tiết độ sứ năm [[765]]. Trong thời gian trại trấn ông ra sức củng cố thế lực riêng, từng bước lily khai triều đình, mở đầu cho nạn phiên trấn cát cứ về sau. Khi triều đình đem quân thảo phạt [[Lý Duy Nhạc]] năm [[781]], Lý ChánhChính KỉKỷ đem quân hỗ trợ các trấn khởi loạn, sử xưng là [[loạn tứ trấn]]. Ông qua đời trong cùng năm đó.
 
== Dưới quyền Vươngphiên Huyền Chí và Hầu Hi Dậttrấn ==
Lý Hoài Ngọc chào đời năm [[733]] dưới triều vua Huyền Tông [[nhà Đường]]<ref name="CDT124">''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷124|quyển 124]].</ref>. Sử sách không cho biết nhiều về gia thế của ông. Tính đến năm [[758]] thời [[Đường Túc Tông|vua Túc Tông nhà Đường]], Lý Hoài Ngọc cùng anh họ ngoại là [[Hầu Hi Dật]]<ref>Mẫu thânMẹ Hầu Hi Dật và mẫu thân Lý ChánhChính KỉKỷ là chị em với nhau</ref> phục vụ dưới quyền Tiết độ sứ Bình Lư<ref>Trị sở lúc này nằm ở Triều Dương, Liêu Ninh</ref> Vương Huyền Chí.
 
Năm [[758]], [[Vương Huyền Chí]] chết trong trận chiến với quân [[Sử Tư Minh]]. Vua Túc Tông sai sứ đến trấn Bình Lư tìm người kế nhiệm Huyền Chí. Lý Hoài Ngọc sợ rằng con trai Huyền Chí sẽ được lập làm tiết độ sứ, bèn giết người ấy đi, cùng quân trong trấn ủng hộ [[Hầu Hi Dật]] lĩnh quân vụ. Trước tình hình đó, vua Túc Tông sai sứ sắc phong Hầu Hi Dật là tiết độ phó sứ, rồi Tiết độ sứ ở Bình Lư. Sử gia [[Tư Mã Quang]] trong ''[[Tư trị thông giám]]'' chê trách việc làm này và cho rằng nó thể hiện sự bất lực của triều đình và đánh dấu sự bắt đầu trỗi dậy của phiên trấn về sau<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷220|quyển 220]]</ref>.
Lý Hoài Ngọc chào đời năm [[733]] dưới triều vua Huyền Tông [[nhà Đường]]<ref name="CDT124">''[[Cựu Đường thư]]'', [[:zh:s:舊唐書/卷124|quyển 124]].</ref>. Sử sách không cho biết nhiều về gia thế của ông. Tính đến năm [[758]] thời [[Đường Túc Tông|vua Túc Tông nhà Đường]], Lý Hoài Ngọc cùng anh họ ngoại là [[Hầu Hi Dật]]<ref>Mẫu thân Hầu Hi Dật và mẫu thân Lý Chánh Kỉ là chị em với nhau</ref> phục vụ dưới quyền Tiết độ sứ Bình Lư<ref>Trị sở lúc này nằm ở Triều Dương, Liêu Ninh</ref> Vương Huyền Chí.
 
Lúc này quân Bình Lư bị tấn công liên tiếp từ các bộ tộc [[Hề]] và [[Khiết Đan]], đúng lúc đó quân Yên lại đến bức bách, tình thế nguy khốn. Hầu Hi Dật khích lệ tướng sĩ dưới quyền, sau đó đánh bại quân Yên do [[Lý Hoài Tiên]] chỉ huy. Nhưng về sau không được quân triều đình cứu viện nên [[Hầu Hi Dật]] đưa quân đội của mình về Thanh châu. Gặp lúc [[Điền Thần Công]], [[Năng Nguyên Hạo]] ở Duyện châu, Hi Dật cử quân vây hãm Thanh châu, có chiếu cho ông làm Bình Lư, Tri Thanh tiết độ sứ. Từ thời điểm này, trấn Bình Lư còn được gọi là trấn Tri Thanh. Lý Hoài Ngọc tiếp tục phục vụ Hi Dật, tham gia cùng quân triều đình trong trận chiến tiêu diệt [[Sử Triều Nghĩa]] ([[763]]) của [[Đại Yên]], được nhận chức Binh mã sửsứ<ref name="CDT124" />.
Năm [[758]], [[Vương Huyền Chí]] chết trong trận chiến với quân [[Sử Tư Minh]]. Vua Túc Tông sai sứ đến trấn Bình Lư tìm người kế nhiệm Huyền Chí. Lý Hoài Ngọc sợ rằng con trai Huyền Chí sẽ được lập làm tiết độ sứ, bèn giết người ấy đi, cùng quân trong trấn ủng hộ [[Hầu Hi Dật]] lĩnh quân vụ. Trước tình hình đó, vua Túc Tông sai sứ sắc phong Hầu Hi Dật là tiết độ phó sứ, rồi Tiết độ sứ ở Bình Lư. Sử gia [[Tư Mã Quang]] trong [[Tư trị thông giám]] chê trách việc làm này và cho rằng nó thể hiện sự bất lực của triều đình và đánh dấu sự bắt đầu trỗi dậy của phiên trấn về sau<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷220|quyển 220]]</ref>.
 
Lúc này quân Bình Lư bị tấn công liên tiếp từ các bộ tộc [[Hề]] và [[Khiết Đan]], đúng lúc đó quân Yên lại đến bức bách, tình thế nguy khốn. Hầu Hi Dật khích lệ tướng sĩ dưới quyền, sau đó đánh bại quân Yên do [[Lý Hoài Tiên]] chỉ huy. Nhưng về sau không được quân triều đình cứu viện nên [[Hầu Hi Dật]] đưa quân đội của mình về Thanh châu. Gặp lúc [[Điền Thần Công]], [[Năng Nguyên Hạo]] ở Duyện châu, Hi Dật cử quân vây hãm Thanh châu, có chiếu cho ông làm Bình Lư, Tri Thanh tiết độ sứ. Từ thời điểm này, trấn Bình Lư còn được gọi là trấn Tri Thanh. Lý Hoài Ngọc tiếp tục phục vụ Hi Dật, tham gia cùng quân triều đình trong trận chiến tiêu diệt [[Sử Triều Nghĩa]] ([[763]]) của [[Đại Yên]], được nhận chức Binh mã sử<ref name="CDT124" />.
 
== Tiết độ sứ Tri Thanh ==
Trong khi đó [[Hầu Hi Dật]] lãng phí của cải để phục vụ cho những nhu cầu cá nhân, khiến quân khố cạn kiệt. Trong khi Lý Hoài Ngọc lại nhận được sự ủng hộ của nhiều tướng sĩ; nên tức giận muốn cách chức đi, quân sĩ bảo là vô tội không cớ gì để phế. Vào mùa hè năm [[765]], nhân Hầu Hi Dật ra khỏi thành, quân sĩ nổi loạn, đóng cửa ngăn không cho Hi Dật trở về, tôn Lý ChánhChính KỉKỷ lĩnh quân vụ ở Tri Thanh. [[Đường Đại Tông|Vua Đại Tông]] cử hoàng tử Lý Mạc làm tiết độ sứ trên danh nghĩa ở Bình Lư, được một thời gian rồi triệu về, phong Lý Hoài Ngọc là Bình Lư Tri Thanh tiết độ quan sát sứ, Hải Vận áp Tân La Bột Hải lưỡng phiền sứ, Kiểm giáo công bộ thượng thư kiêm Ngự sử đại phu, Thanh châu thứ sử; ban tên ChánhChính KỉKỷ<ref name="CDT124" />. Sau gia Kiểm phó thượng thư Hữu phó xạ, Nhiêu Dương quận vương. Lúc này trấn Bình Lư có 10 châu: Tri, Thanh, Tề, Hải, Đăng, Lai, Nghi, Mật, Đức, Lệ.
 
ChánhChính KỉKỷ ở Tri Thanh, liên kết với các tướng cũ của Đại Yên như [[Điền Thừa Tự]] ở Ngụy Bác<ref>Trị sở thuộc [[Hàm Đan]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Trung Quốc]] ngày nay</ref>, [[Lý Bảo Thần]] ở Thành Đức<ref>Trị sở thuộc [[Thạch Gia Trang]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Trung Quốc]] ngày nay</ref>, [[Lý Hoài Tiên]] ở Lư Long<ref>Trị sở nay thuộc thủ đô [[Bắc Kinh]], [[Trung Quốc]]</ref>, âm mưu li khai với triều đình. Ông dùng hình phạt nghiêm khắc và tàn khốc, tướng sĩ dưới quyền không ai dám nói lời bậy bạ<ref name="CDT124" />. Để thắt chặt quan hệ, các trấn xếp đặt hôn nhân, Lý ChánhChính KỉKỷ gả con gái của mình cho con trai [[Lý Bảo Thần]] là [[Lý Duy Thành]] và cưới con gái Lý Bảo Thần cho con trai mình, [[Lý Nạp]].
Trong khi đó [[Hầu Hi Dật]] lãng phí của cải để phục vụ cho những nhu cầu cá nhân, khiến quân khố cạn kiệt. Trong khi Lý Hoài Ngọc lại nhận được sự ủng hộ của nhiều tướng sĩ; nên tức giận muốn cách chức đi, quân sĩ bảo là vô tội không cớ gì để phế. Vào mùa hè năm [[765]], nhân Hầu Hi Dật ra khỏi thành, quân sĩ nổi loạn, đóng cửa ngăn không cho Hi Dật trở về, tôn Lý Chánh Kỉ lĩnh quân vụ ở Tri Thanh. [[Đường Đại Tông|Vua Đại Tông]] cử hoàng tử Lý Mạc làm tiết độ sứ trên danh nghĩa ở Bình Lư, được một thời gian rồi triệu về, phong Lý Hoài Ngọc là Bình Lư Tri Thanh tiết độ quan sát sứ, Hải Vận áp Tân La Bột Hải lưỡng phiền sứ, Kiểm giáo công bộ thượng thư kiêm Ngự sử đại phu, Thanh châu thứ sử; ban tên Chánh Kỉ<ref name="CDT124" />. Sau gia Kiểm phó thượng thư Hữu phó xạ, Nhiêu Dương quận vương. Lúc này trấn Bình Lư có 10 châu: Tri, Thanh, Tề, Hải, Đăng, Lai, Nghi, Mật, Đức, Lệ.
 
Nhân Điền Thừa Tự cướp đoạt đất Tương, Vệ thuộc Chiêu Nghĩa<ref>Trị sở thuộc [[An Dương]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref>, vào năm [[775]], ông cùng Lý Bảo Thần cùng dâng biểu lên triều đình nói tội của Thừa Tự, xin đem quân thảo phạt<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷225|quyển 225]]</ref>. Đại Tông cũng muốn hạn chế thế lực phiên trấn nên bằng lòng, tập hợp các trấn dẫn quân đánh Ngụy, trong đó ông Chánh Kỉ cùng quân của Lý Trung Thần ở Hoài Tây đánh từ phía nam. Lý ChánhChính KỉKỷ thấy triều đình ban thưởng cho quân của Lý Bảo Thần nhiều hơn mình, nên tỏ ra không vừa lòng rồi tạm lui quân về. [[Điền Thừa Tự]] bèn dùng lời lẽ ngon ngọt thuyết phục ông về trấn, và lập liên minh với Lý Bảo Thần. Triều đình không làm gì được, phải xá tội cho Thừa Tự.
Lý Chánh Kỉ ở Tri Thanh, liên kết với các tướng cũ của Đại Yên như [[Điền Thừa Tự]] ở Ngụy Bác<ref>Trị sở thuộc [[Hàm Đan]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Trung Quốc]] ngày nay</ref>, [[Lý Bảo Thần]] ở Thành Đức<ref>Trị sở thuộc [[Thạch Gia Trang]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Trung Quốc]] ngày nay</ref>, [[Lý Hoài Tiên]] ở Lư Long<ref>Trị sở nay thuộc thủ đô [[Bắc Kinh]], [[Trung Quốc]]</ref>, âm mưu li khai với triều đình. Ông dùng hình phạt nghiêm khắc và tàn khốc, tướng sĩ dưới quyền không ai dám nói lời bậy bạ<ref name="CDT124" />. Để thắt chặt quan hệ, các trấn xếp đặt hôn nhân, Lý Chánh Kỉ gả con gái của mình cho con trai [[Lý Bảo Thần]] là [[Lý Duy Thành]] và cưới con gái Lý Bảo Thần cho con trai mình, [[Lý Nạp]].
 
Năm [[776]], Tiết độ sứ Biện Tống<ref>Trị sở nay thuộc [[Khai Phong]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref> [[Điền Thần Ngọc]] hoăng, tướng [[Lý Linh Diệu]] làm lưu hậu, chiếm cứ thành và cùng [[Lý Tăng Huệ]] nổi dậy chống lại triều đình. Lý Chính Kỉ theo điều động dẫn quân thảo phạt Linh Diệu, cùng các tướng triều đình dẹp xong loạn. Sau trận này, ông lấy thêm 5 châu (trong số 8 châu của Biến Tống) là Tào, Bộc, Từ, Duyện, Vận; tổng cộng có 15 châu, trở thành phiên trấn có lãnh địa lớn nhất thời bấy giờ. Ông tự đặt ra pháp lệnh, từng bước li khai triều đình, giảm thuế cho bá tánh trong trấn, các trấn khác đều sợ hãi.
Nhân Điền Thừa Tự cướp đoạt đất Tương, Vệ thuộc Chiêu Nghĩa<ref>Trị sở thuộc [[An Dương]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref>, vào năm [[775]], ông cùng Lý Bảo Thần cùng dâng biểu lên triều đình nói tội của Thừa Tự, xin đem quân thảo phạt<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷225|quyển 225]]</ref>. Đại Tông cũng muốn hạn chế thế lực phiên trấn nên bằng lòng, tập hợp các trấn dẫn quân đánh Ngụy, trong đó ông Chánh Kỉ cùng quân của Lý Trung Thần ở Hoài Tây đánh từ phía nam. Lý Chánh Kỉ thấy triều đình ban thưởng cho quân của Lý Bảo Thần nhiều hơn mình, nên tỏ ra không vừa lòng rồi tạm lui quân về. [[Điền Thừa Tự]] bèn dùng lời lẽ ngon ngọt thuyết phục ông về trấn, và lập liên minh với Lý Bảo Thần. Triều đình không làm gì được, phải xá tội cho Thừa Tự.
 
Năm [[776]], Tiết độ sứ Biện Tống<ref>Trị sở nay thuộc [[Khai Phong]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref> [[Điền Thần Ngọc]] hoăng, tướng [[Lý Linh Diệu]] làm lưu hậu, chiếm cứ thành và cùng [[Lý Tăng Huệ]] nổi dậy chống lại triều đình. Lý Chánh Kỉ theo điều động dẫn quân thảo phạt Linh Diệu, cùng các tướng triều đình dẹp xong loạn. Sau trận này, ông lấy thêm 5 châu (trong số 8 châu của Biến Tống) là Tào, Bộc, Từ, Duyện, Vận; tổng cộng có 15 châu, trở thành phiên trấn có lãnh địa lớn nhất thời bấy giờ. Ông tự đặt ra pháp lệnh, từng bước li khai triều đình, giảm thuế cho bá tánh trong trấn, các trấn khác đều sợ hãi. Tháng 11 năm [[775]], gia Kiểm giáo tư không, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Sau đó ông chuyển trị sở trấn Tri Thanh từ Thanh châu<ref>[[Duy Phường]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref> đến Vận châu<ref>[[Thái An]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref>.
 
== Cuối đời ==
[[Đường Đức Tông]] lên ngôi ([[779]]), Lý ChánhChính KỉKỷ sai sứ cống nộp bảo vật và tiền bạc để lấy lòng, nhưng Đức Tông (có ý diệt trừ phiên trấn), sai sứ tới Tri Thanh nói là nhận lễ vật, nhưng đưa trở lại coi như là thưởng cho những tướng sĩ chết trận ở Bình Lư. ChánhChính KỉKỷ tỏ ra khâm phục nhưng cũng rất sợ hãi. Khi Đức Tông dẹp được [[Lưu Văn Xỉ]] ([[780]]), ông càng trở nên sợ hãi và có ý chống lại triều đình.
 
Năm [[781]], [[Lý Bảo Thần]] hoăngchết, con là [[Lý Duy Nhạc]] tự lập làm lưu hậu ở Thành Đức, triều đình không công nhận và đưa quân thảo phạt. Lý ChánhChính KỉKỷ bèn liên minh với [[Lý Duy Nhạc]] và [[Điền Duyệt]] (kế tục Điền Thừa Tự) cùng chống triều đình, lấy cớ thảo phạt tể tướng [[Dương Viêm]] hãm hại trung thần [[Lưu Yến]]. Ông tìm cách ngăn chặn đường vận chuyển lương thực cho quân đội triều đình ở Trường An (nhưng bất thành) và xây thành Biện châu, đem binh đóng ở Tế Âm lén lút tập luyện. Lại tăng binh ở Từ châuChâu, uy hiếp Giang, Hoài, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Nhưng sau, ông phát bệnh ung nhọt rồi qua đời. Con là [[Lý Nạp]] quản lý quân vụ, giấu việc mấy tháng rồi mới phát tang. Nạp sau đó nổi dậy cùng ba trấn xưng vương, gọi là loạn tứ trấn. Về sau năm [[784]], Nạp lại quy phục, triều đình hạ chiếu truy tặng ChánhChính KỉKỷ là Thái úy<ref name="CDT124" />.
[[Đường Đức Tông]] lên ngôi ([[779]]), Lý Chánh Kỉ sai sứ cống nộp bảo vật và tiền bạc để lấy lòng, nhưng Đức Tông (có ý diệt trừ phiên trấn), sai sứ tới Tri Thanh nói là nhận lễ vật, nhưng đưa trở lại coi như là thưởng cho những tướng sĩ chết trận ở Bình Lư. Chánh Kỉ tỏ ra khâm phục nhưng cũng rất sợ hãi. Khi Đức Tông dẹp được [[Lưu Văn Xỉ]] ([[780]]), ông càng trở nên sợ hãi và có ý chống lại triều đình.
 
== Tham khảo ==
Năm [[781]], [[Lý Bảo Thần]] hoăng, con là [[Lý Duy Nhạc]] tự lập làm lưu hậu ở Thành Đức, triều đình không công nhận và đưa quân thảo phạt. Lý Chánh Kỉ bèn liên minh với [[Lý Duy Nhạc]] và [[Điền Duyệt]] (kế tục Điền Thừa Tự) cùng chống triều đình, lấy cớ thảo phạt tể tướng [[Dương Viêm]] hãm hại trung thần [[Lưu Yến]]. Ông tìm cách ngăn chặn đường vận chuyển lương thực cho quân đội triều đình ở Trường An (nhưng bất thành) và xây thành Biện châu, đem binh đóng ở Tế Âm lén lút tập luyện. Lại tăng binh ở Từ châu, uy hiếp Giang, Hoài, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Nhưng sau, ông phát bệnh ung nhọt rồi qua đời. Con là [[Lý Nạp]] quản lý quân vụ, giấu việc mấy tháng rồi mới phát tang. Nạp sau đó nổi dậy cùng ba trấn xưng vương, gọi là loạn tứ trấn. Về sau năm [[784]], Nạp lại quy phục, triều đình hạ chiếu truy tặng Chánh Kỉ là Thái úy<ref name="CDT124" />.
*''[[Cựu Đường thư]]''
*''[[Tân Đường thư]]''
*'''[[Tư trị thông giám]]''
 
== Tham khảo ==
*[[Cựu Đường thư]]
*[[Tân Đường thư]]
*[[Tư trị thông giám]]
== Chú thích ==
{{tham khảo}}