Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Ten-Go”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: tháng 4]], 19 → tháng 4 năm 19, tháng 8, 19 → tháng 8 năm [[19 using AWB
n →‎Ngày 7 tháng 4: replaced: có 2 người → có hai người using AWB
Dòng 101:
Thỉnh thoảng, xen vào âm thanh bi tráng này là những tiếng la to "''Tenno Heika Banzai''" (Thiên Hoàng vạn tuế), chứng tỏ một người nào đó đang hát đã bị thương nặng hoặc kiệt sức nên đành bỏ dở nửa chừng bài hợp xướng và xuôi tay vĩnh viễn.<ref>{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=255}}</ref>
 
Trong lúc đó, các [[tàu khu trục|khu trục hạm]] còn lại của Nhật trên đường rút chạy tiếp tục bị các máy bay Mỹ truy đuổi. ''Asashimo'' và ''Kasumi'' bị máy bay Mỹ dùng bom đánh chìm; ''Suzutsuki'' bị trúng một trái bom vào ngay mũi, phải trở về Sasebo bằng động cơ hơi nước; ''Hatsushimo'' không hề bị trúng một viên đạn nào và thủy thủ đoàn chỉ có 2hai người bị thương; ''Fuyuzuki'' hầu như an toàn mặc dù trúng 2 [[tên lửa|hỏa tiễn]] nhưng hàng chục thủy thủ thiệt mạng vì đạn [[đại liên]]; ''Yukikaze'' cũng hư hại nhẹ và có 3 thủy thủ thiệt mạng.<ref>{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=260}}</ref> Ba chiếc khu trục hạm này đã chất đầy những người còn sống sót được vớt từ biển lên, bao gồm 280 người của ''Yamato'' (những tài liệu khác nhau cho rằng thủy thủ đoàn của ''Yamato'' từ 2.750 đến 3.300 người),<ref>{{harvnb| Jentschura, Hansgeorg|1977|p=39}} cho số liệu Yamato có 2.498 thủy thủ thiệt mạng</ref><ref>CombinedFleet.com cho số liệu 3.063</ref><ref>Abe, Saburo, ''Tokko Yamato Kantai'' (''Hạm đội tấn công đặc biệt Yamato'')" thì cho số liệu 3056 người.</ref> 555 người của ''Yahagi'' (trong tổng số 1.000 thủy thủ đoàn) và 800 người của ''Isokaze'', ''Hamakaze'' và ''Kasumi''. Một số cựu binh Nhật còn sống sót đã khẳng định máy bay Mỹ đã bắn đạn [[súng máy]] vào những nhóm thủy thủ còn sống sót đang nổi trên mặt nước,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.pbs.org/wgbh/nova/supership/surv-ishida.html | title=Survivor Stories: Ishida | author=Naoyoshi Ishida | coauthors=Keiko Bang | month=9 | year=2005 | work=Sinking the Supership | publisher=[[NOVA (loạt phim truyền hình)|NOVA]]}}</ref><ref>{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=256,257}}</ref> trong khi số khác lại nói máy bay Mỹ đã ngừng tấn công để cho các khu trục hạm cứu vớt các thủy thủ.<ref>{{harvnb|Yoshida, Mitsuru|1999|p=144}}</ref> Trưa ngày [[8 tháng 4]], Đệ nhị hạm đội, giờ đây chỉ còn lại 4 khu trục hạm, đã về đến [[Sasebo]].<ref>{{harvnb|Yoshida, Mitsuru|1999|p=140}}</ref><ref name="TBD136">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|2000|p=136}}</ref> Lúc 17 giờ 10 phút, Đô đốc Mitscher gửi báo cáo cho Đô đốc Spruance nói rằng lực lượng của ông đã tấn công ''Yamato'', ''[[Tuần dương hạm Agano|Agano]]'', 7 hoặc 8 khu trục hạm khác và kết quả là đánh chìm được 3, làm 2 chiếc khác bị thương rất nặng và mất khoảng 7 máy bay.<ref name="Morison209">{{harvnb|Morison|2002|p=209}}</ref> Trong báo cáo của mình, Mitscher đã có sự nhầm lẫn giữa hai tuần dương hạm ''Yahagi'' và ''Agano''.
 
Sau khi những gì còn lại của Đệ nhị hạm đội về đến [[Sasebo]], Tổng tư lệnh hạm đội Liên hợp đã gửi giấy tuyên dương công trạng cho hạm đội này vì đã dũng cảm xả thân, giúp cho các máy bay tấn công đặc biệt thu được một kết quả vĩ đại trong cuộc chiến vào ngày [[7 tháng 4]].<ref name="Yamamoto261">{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=261}}</ref> Kết quả vĩ đại ở đây là việc 114 máy bay của Nhật, bao gồm 60 [[máy bay tiêm kích]], 40 [[máy bay ném bom]] và 14 [[Thần phong|Kamikaze]] đã tấn công, gây hư hại cho hàng không mẫu hạm ''[[USS Hancock (CV-19)|Hancock]]'', thiết giáp hạm ''[[USS Maryland (BB-46)|Maryland]]'' và khu trục hạm ''[[USS Bennett (DD-473)|Bennett]]'' trong khi khoảng 100 máy bay bị bắn hạ.<ref name="Yamamoto261"/>