Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Na Uy”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
n replaced: , → ,, Quốc Xã → Quốc xã, == Tài liệu tham khảo == → ==Tham khảo== using AWB |
||
Dòng 4:
[[Giai đoạn di cư]] của các dân tộc du mục Bắc Âu đã gây nên những cuộc đụng độ đầu tiên, từ đó bắt buộc phải có thủ lĩnh để chỉ huy chinh chiến. Từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ thứ 8 người Na Uy bắt đầu tung hoành trên biển, đến [[Quần đảo Anh|Anh]] và sau đó [[Iceland]] và [[Greenland]]. Kỉ Viking cho thấy một sự hỗn loạn, không thống nhất của vùng đất Na Uy. Nhưng trong quá trình mở rộng lãnh thổ, người Viking cũng tiếp nhận Thiên Chúa Giáo. Dân số mở rộng nhanh chóng cho đến năm 1349 (Oslo: 3,000; Bergen: 7,000; Trondheim: 4,000){{Cần chú thích|date=November 2013}} khi bị giảm một nửa do [[Cái chết Đen|bệnh dịch cái chết Đen]] và mất mùa, đói kém. [[Bergen]] trở thành trung tâm chính trị và kinh tế của Na Uy. Na Uy gia nhập [[liên minh Kalmar]] với Đan mạch và Thụy Điển năm 1397.
Sau khi Thụy Điển rời khỏi liên minh năm 1523, Na Uy trở thành một phần trong liên minh [[Đan Mạch-Na Uy|Đan Mạch–Na Uy]]. Các [[Cải cách Tin Lành|Cải cách]] được áp dụng năm 1537 và chế độ quân chủ tuyệt đối áp đặt năm 1661. Trong năm 1814 Na Uy được nhượng lại cho vua Thụy Điển bởi [[
Công nghiệp hóa bắt đầu vào những năm 1840 và từ những năm 1860 sự di cư quy mô lớn đến Bắc Mỹ đã diễn ra. Trong năm 1884 nhà vua chỉ định Johan Sverdrup làm thủ tướng
Đánh cá và [[thủy điện]] là nguồn thu nhập quan trọng cho quốc gia. Những thập kỷ sau thấy một biến động, sự gia tăng của phong trào lao động. Đức Quốc
== Thời tiền sử ==
Dòng 18:
Thời đại đồ Đồng bắt đầu vào năm 1800, trước công nguyên, với nhiều hình thức định cư mới như xây nhà, sân, các cánh đồng, nông trại, đặc biệt là trong khu vực màu mỡ xung quanh vịnh Oslo, vịnh Trondheim, [[Hồ Mjøsa|Mjøsa]] và Jæren. Với sự gia tăng trong sản lượng nông nghiệp, nó cho phép nông dân Na Uy buôn bán các mặt hàng sang trọng với các vùng lân cận như Jutland.<ref name="s12">Stenersen: 12</ref> Khoảng 1000 trước công nguyên, những người nói [[Hệ ngôn ngữ Ural|ngôn ngữ Ural]] đến định cư phía bắc và đồng hóa với dân bản địa, trở thành [[người Sami]]. Tuy nhiên, theo Ante Aikio<ref>{{Chú thích|title=Etymologie, Entlehnungen und Entwicklungen: Festschrift für Jorma Koivulehto zum 70. Geburtstag|publication-date=2004}}</ref> sự nhập cư của người Sami là không sớm hơn năm 500 SCN.
Một sự thay đổi khí hậu với thời tiết lạnh bắt đầu 500 năm trước công nguyên. Các khu rừng, mà trước đó đã bao gồm [[Ulmus|cây đu]], chi đoạn, [[Fraxinus|ash]] và[[ sồi]], được thay thế bằng [[Chi Cáng lò|bạch dương]],[[
=== Thời đại đồ sắt (500 TCN–800 SCN) ===
Đồ sắt nâng cao hiệu quả trồng trọt dẫn đến dân số tăng với sự gia tăng thu hoạch. Một cơ cấu xã hội mới phát triển, đó là [[
Từ thế kỷ đầu tiên sau CN ảnh hưởng từ [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]] đã diễn ra ở Na Uy. Người Na Uy có chữ [[Chữ rune|rune]] riêng cho mình. Kinh doanh với người La Mã cũng đã diễn ra, phần lớn là lông thú và da đổi lấy hàng sang trọng. Một số người Scandinavi cũng từng là [[lính đánh thuê]] La mã. Một số nông dân giàu có nhất đã trở thành [[tù trưởng]]. Mỗi tù trưởng quy định một khu vực định cư riêng cho bộ lạc mình.<ref name="Stenersen: 16">Stenersen: 16</ref>
Quyền lực của thủ lĩnh gia tăng trong [[
== Thời đại Viking ==
Dòng 47:
<ref>Derry p.114</ref>
==
{{reflist|20em}}
[[Thể loại:Lịch sử Na Uy]]
|