Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thanh Kim Huệ”

nghệ sĩ cải lương người Việt Nam
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “Nghệ sĩ Thanh Kim Huệ là một nữ nghệ sĩ cải lương nổi tiếng. Bà được xem là một trong những cô đào nổi tiếng bậc nhất tr…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 02:22, ngày 9 tháng 6 năm 2017

Nghệ sĩ Thanh Kim Huệ là một nữ nghệ sĩ cải lương nổi tiếng. Bà được xem là một trong những cô đào nổi tiếng bậc nhất trên sân khấu cải lương phía Nam.

Thanh Kim Huệ
Tên khai sinhBùi Thị Huệ
Sinh14 tháng 11, 1955 (68 tuổi)[1]
Sài Gòn, Việt Nam
Nghề nghiệpnghệ sĩ cải lương
Năm hoạt độngtừ 1975

Thời hoàng kim của sân khấu cải lương trong thập niên 60, nhiều nghệ sĩ trẻ từ 12 đến 15 tuổi nổi danh nhờ vào giọng ca vọng cổ với làn hơi thiên phú, có sắc thái mới lạ, hấp dẫn khán thính giả mặc dù những nghệ sĩ trẻ nầy chưa có những nét đặc sắc về diễn xuất hay về nhan sắc. 

    Đây là một trào lưu của khán thính giả thích nghe ca vọng cổ hơn là thưởng thức nghệ thuật diễn xuất trên sân khấu. Các dĩa hát, các băng cassette ca vọng cổ và tuồng cải lương được sản xuất và phát hành rộng rãi, được đông đảo người mua và thưởng thức từ thành thị đến thôn quê. Điều đó làm cho nghệ sĩ danh ca vọng cổ trẻ càng mau nổi tiếng. Trong số những nghệ sĩ nổi danh nhanh chóng đó có các nghệ sĩ Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng, Lệ Thủy, Ngọc Giàu, Mỹ Châu, Thanh Kim Huệ, Phượng Liên… 

    Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, một giọng ca trong suốt, khỏe khoắn, trẻ trung, thu hút khán thính giả ngay khi Thanh Kim Huệ mới xuất hiện trong làng sân khấu cải lương, nhưng Thanh Kim Huệ gặp lắm nỗi gian nan, khó khăn trở ngại trên con đường nghệ thuật lúc mới khởi đầu chớ không thuận buồm xuôi gió như các nghệ sĩ trẻ khác. 

    Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ tên thật là Bùi Thị Huệ, sinh ngày 14 tháng 11 năm 1955 tại Saigon. Thân phụ là nghệ sĩ tiền phong Bùi Văn Lang, Mẹ là bà Ngô Thị Kim. 

 Tiểu sử

Khi bà còn là diễn viên của đoàn hát Hoa Phượng của Bầu Trung, trong một lần đi lưu diễn vào năm 1969. Đoàn gặp tai nạn lật ghe ở gần phà Vàm Cống, nhờ có nghệ sĩ Thanh Điền mà nghệ sĩ Thanh Kim Huệ và một số thành viên trong đoàn đã được cứu. Sau tai nạn này không lâu, đoàn Hoa Phượng tan rã. Bà cùng nghệ sĩ Thanh Điền và nhiều diễn viên khác ra nhập đoàn Kim Chung 2. Năm 1972, Thanh Kim Huệ nổi danh qua các đĩa vọng cổ Yêu Lầm, Biển Tình, Thà Như Giọt Mưa...

Năm 1974, nghệ sĩ Thanh Điền lập nên gánh hát Xuân Liên Hoa và mời Thanh Kim Huệ về làm đào chánh. Đến năm 1975 thì bà cùng nghệ sĩ Thanh Điền kết hôn. Vợ chồng bà tiếp tục tham gia các đoàn cải lương Sài Gòn 2, 3, 1, Văn công Thành phố Hồ Chí Minh, Nhân dân Kiên Giang. Đặc biệt, với Thị Hến trong vở chuyển thể cải lương Ngao Sò Ốc Hến diễn cùng nghệ sĩ Thanh Điền vào năm 1982, đã mang lại danh tiếng cho bà và nghệ sĩ Thanh Điền. Vợ chồng nghệ sĩ Thanh Kim Huệ được xem là cặp nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất của sân khấu cải lương thời bấy giờ. Và vở diễn "Ngao sò ốc hến" của ông bà đã trở thành khuôn mẫu cho các nghệ sĩ khác khi diễn vở này. Khi cải lương thoái trào, nghệ sĩ Thanh Kim Huệ cùng chồng về mở tiệm nhiếp ảnh để sinh kế.

Tại Liên hoan truyền hình toàn quốc năm 2003, ông bà đều được tặng Huy chương vàng trong vở "Khúc ly hương" với vai trò diễn viên chính (Thanh Điền) và tác giả (Thanh Kim Huệ).

Để ghi nhận công lao của nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, nhà nước Việt Nam đã phong tặng bà danh hiệu cao quý Nghệ sĩ ưu tú.

Lắm nỗi gian nan

Năm 12 tuổi bé Huệ theo cha mẹ ở đoàn hát Hằng Xuân – An Khương của ông bà bầu Sáu Đặng, một gánh hát bực trung mới thành lập năm 1967. Ông Bầu Sáu Đặng nguyên là nhạc sĩ cổ nhạc đoàn Thanh Minh Thanh Nga, lập gánh hát để tạo cơ hội phát triển cho hai đứa con của ông là nữ nghệ sĩ trẻ Hằng Xuân và bé An Khương. Bé Huệ được cho ca vọng cổ ngoài màn trước giờ hát, giọng hát của bé Huệ 12 tuổi đã được các ký giả kịch trường và khán giả khen ngợi và tiên đoán có nhiều triển vọng trở thành một danh ca nhanh chóng như trường hợp của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu. Nhưng vận số của Bé Huệ chưa thông, đoàn hát Xuân Hằng – An Khương sau đợt hát khai trương tại rạp Nguyễn Văn Hảo, lưu diễn ở các rạp quanh Saigon, Chợlớn, chuẩn bị hát bán dàn ở tỉnh Tây Ninh. Ngày đoàn hát đi Tây Ninh, xe đò chở nghệ sĩ đổ xăng tại ngã tư Bảy Hiền, nghệ sĩ Phi Hùng quẹt ống quẹt đốt thuốc hút, vòi đổ xăng bắt lửa phựt cháy, anh tài xế quăng vòi xăng bỏ chạy, xăng văng vô xe, lửa cháy trong xe nghệ sĩ, nữ nghệ sĩ Hằng Xuân, con gái của ông bà Bầu Sáu Đặng bị phỏng nặng và chết ngay sau đó. Gánh hát Hằng Xuân – An Khương tan rã. Bé Huệ được đoàn Thanh Minh Thanh Nga nhận cho vào học hát, đóng vai em bé trong các tuồng hát của đoàn. 

    Năm 1968, ông Lang, cha của bé Huệ thấy Bé Huệ không có cơ hội phát triển khi hát trên một sân khấu mà có quá nhiều nghệ sĩ thượng thặng như Thanh Nga, Bích Sơn, Ngọc Nuôi, Ngọc Giàu…ông dẫn bé Huệ gia nhập đoàn hát cải lương Thiên Hương, một đoàn hát nhỏ, chuyên hát ở các quận huyện và tỉnh nhỏ với hy vọng ở đoàn hát nhỏ, Bé Huệ sẽ có những vai tuồng để hát chớ không phải chỉ ca salon ngoài màn. Nhưng rồi đoàn hát Thiên Hương cũng bị rã gánh sau cái Tết Mậu Thân máu lửa. 

    Năm 1969, bé Huệ theo cha mẹ đi theo đoàn hát cải lương Hoa Phượng của ông Bầu Trung, lưu diễn miền Trung, sau đó đoàn cải lương Thiên Hương về hát các tỉnh Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên. Chiếc ghe chở nghệ sĩ và tranh cảnh của đoàn hát bị chìm trên sông gần Bắc Vàm Cống, nghệ sĩ Thanh Điền đã đeo phao cứu được Bé Huệ và nhiều nghệ sĩ khác. Gánh hát Hoa Phượng tan rã tại đây nhưng tình cảm giữa Bé Huệ và Thanh Điền bắt đầu chớm nở. 

    Năm 1970, thân phụ của nghệ sĩ Thanh Điền giới thiệu Thanh Điền và Thanh Kim Huệ với ông Bầu Long. Sau khi thử giọng ca, ông Bầu Long chấp nhận cho Thanh Điền và Thanh Kim Huệ vào hát kép nhì, đào nhì trong đoàn Kim Chung 2. Thanh Kim Huệ đã hát các vai đào nhì trong các tuồng Manh Áo Quê Nghèo, Mây Chiều Phú Sĩ Sơn, …Giọng ca của Thanh Kim Huệ được khán giả nhiệt liệt ngợi khen nhưng năm 1970, thời điểm sau cái Tết Mậu Thân, nghệ sĩ cải lương long đong vì đô thành Saigon giới nghiêm ban đêm, hát suất ban ngày không có khán giả, các đoàn hát hát để kiếm sống lây lất qua ngày nên Thanh Kim Huệ không được may mắn như các danh ca nổi lên trong những năm 1960, 1961, 1962…. 

    Năm 1972, nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ được soạn giả Loan Thảo giới thiệu với bà Sáu Liên, chủ hãng dĩa Việt Nam để thu dĩa vọng cổ. Thanh Kim Huệ nổi danh qua các dĩa vọng cổ Yêu Lầm, Biển Tình, Thà Như Giọt Mưa… Bầu Long – Kim Chung bèn nâng Thanh Kim Huệ lên hát vai đào chánh trong đoàn Kim Chung 2. 

    Năm 1974, Thanh Điền thành lập gánh hát Xuân Liên Hoa, Thanh Kim Huệ là đào chánh. Hai nghệ sĩ Thanh Điền và Thanh Kim Huệ thành hôn vào dịp Tết năm 1975. 

    Thanh Kim Huệ có chất giọng kim, làn hơi trong suốt và cao vút, kỹ thuật ca khi vô vọng cổ có nhiều lúc lạng, bẻ, uốn éo kiểu như nhiều nghệ sĩ ca vô bài Sương Chiều nhưng giọng ca của Thanh Kim Huệ dầu có luyến láy đến mấy thì vẫn nghe rõ lời, rõ ý, tiếng ca nghe mềm mại, uyển chuyển như vuốt ve mơn trớn, tạo thành một lối ca lạ, hấp dẫn người nghe. 

    Sau năm 1975, nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ sử dụng nhuần nhuyễn các bài lý, các điệu hò miền Nam vào trong lòng câu vọng cổ hoặc ca gát trước vọng cổ, Thanh Kim Huệ và nam danh ca Thanh Tuấn hợp lại thành một đôi danh ca vọng cổ được giới trẻ ưa thích với các điệu lý ca lồng trong bài vọng cổ. 

    Sau năm 1975, Thanh Kim Huệ đã đi hát ở các đoàn cải lương Saigon 2, Saigon 3, đoàn cải lương Kiên Giang, đoàn Saigon 1 rồi trở lại Saigon 3. 

    Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ từ khi mới theo nghiệp sân khấu đến nay, đã hát qua trên cả trăm tuồng hát như Mây Chiều Phú Sĩ, Manh Áo Quê Nghèo, Khói Cỏ Quê Hương, Áo Vũ Cơ Hàn, Mắt Em Là Bể Oan Cừu, Tiếng Hát Rừng Hoang, Linh Hồn Của Quỷ, Quỷ Kiến Sầu, Lỡ Bước Sang Ngang, Ánh Lửa Rừng Khuya, Tiếng Hạc Lưng Trời, Công Chúa Alysa… 

    Thanh Kim Huệ cũng là nữ tác giả cải lương có nhiều tuồng được dàn dựng trên đoàn hát Kim Chung 2 và đoàn cải lương Saigon 1. Vở cải lương sáng tác đầu tiên của Thanh Kim Huệ là tuồng Quỷ Kiến Sầu. Thanh Kim Huệ có được 20 soạn phẩm cải lương được dàn dựng trên sân khấu Kim Chung 2 và Saigon 1, đó là các tuồng Nắng Đẹp Muôn Màu, Linh Hồn Của Quỷ, Tiếng Hát Rừng Hoang, Công Chúa Alysa, Em ơi, Đừng Khóc Nữa, Xin Đừng Nói Yêu Em, Bến Tương Tư, Yêu và Ghen… 

    Thanh Kim Huệ đã thu dĩa, băng, đài truyền hình hơn 300 bài vọng cổ đủ loại. 

    Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, mặc dầu có hơi rong, giọng ca lạ, uyển chuyển, có khả năng thu hút cảm tình của người nghe, Thanh Kim Huệ cũng là một cây viết nữ có nhiều tuồng được dàn dựng trên nhiều sân khấu lớn ở Saigòn nhưng có thể nói là khả năng thiên phú cộng với sự nổ lực thường xuyên của cô cũng chỉ làm cho cô ở vào một hoàn cảnh lưng chừng, khi vừa tỏa sáng thì lại gặp khó khăn ngay trong lúc tình hình sân khấu cải lương đang hồi xuống dốc. 

    Thanh Điền và Thanh Kim Huệ đã bán nhà cửa, xe cộ để đổ vào việc duy trì hoạt động của đoàn cải lương Saigon 1. Anh chị về sau mua được nhà, sắm được xe nhờ vào cái nghề chụp hình cho nghệ sĩ và các khách hàng. 

    Về gia đình, Thanh Kim Huệ và Thanh Điền có hai con: con trai là Nguyễn Đăng Quang sinh năm 1977 và con gái Nguyễn Đức Hồng Loan, sinh năm 1986. Nguyễn Đăng Quang đang nối nghiệp Thanh Điền trong nghề chụp ảnh. Hai cha con có hai tiệm chụp ảnh rất đông khách tại Sài Gòn.

Nghệ sĩ Thanh Kim Huệ thời trẻ

Bà đi diễn rất sớm, năm 14 tuổi bà quen nghệ sĩ Thanh Điền khi hát ở đoàn Hoa Phượng của Bầu Trung. Sau đo, bà đã cùng nghệ sĩ Thanh Điền tham gia đoàn Kim Chung 2.

Năm 1975, nghệ sĩ Thanh Kim Huệ chính thức nên duyên vợ chồng cùng nghệ sĩ Thanh Điền, khi đó bà mới 19 tuổi. Đến nay, ông bà đã có hai người con, con trai là Nguyễn Đăng Quang (1977) và con gái Nguyễn Đức Hồng Loan (1986).

Chú thích

  1. a ă â Thanh Kim Huệ: Ông xã “tán” tôi từ năm tôi… 14 tuổi! - Báo Dân trí New.
  2. ^ Vợ chồng Thanh Điền - Thanh Kim Huệ: “Chưa khi nào chán nhau!”, Văn nghệ.
  3. ^ NSƯT Thanh Kim Huệ tung ảnh “độc” thời xuân sắc - Cải Lương Việt ....
  4. ^ NSƯT Thanh Kim Huệ: Không bao giờ có một Thanh Sang thứ hai,Báo Phụ Nữ
  1. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên catp