Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sư đoàn 3 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Lịch sử: chính tả, replaced: đặt biệt → đặc biệt
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Infobox Military Unit
|unit_name= Sư đoàn 3 Bộ binh<br>Việt Nam Cộng hòa
|image= [[Hình: ARVN 3rd Infantry Division SSI.svg|150px]]
|caption= Phù hiệu Sư đoàn
|dates= [[1971]]-[[1975]]
|country= {{flag[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|40px]] [[Việt Nam Cộng hòa}}]]
|allegiance= [[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|allegiance=
|nickname= -Sư đoàn Bến Hải<br>-Sư đoàn Giới tuyến<br/>-Sư đoàn Trừng giới
|branch= [[Lục quân]]
|branch= Lục quân
|type= Bộ binh
|command_structure= [[Hình: QD I VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và Quân khu 1]]<br>[[Hình: ARVN Joint General Staff Insignia.svg|18px]] [[Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Bộ Tổng Tham mưu]]
|role=
|motto= -Xây dựng<br>-Chiến thắng
|size=
|command_structure= [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I]]
|current_commander=
|garrison=
|nicknames=
|patron=
|motto= ''Xây dựng và Chiến thắng''
|colors= [[Vàng]], [[đỏ]], [[xanh lam|lam]], [[trắng]]
|march=
|also known as=
|mascot=
|battles= [[Mùa hè đỏ lửa]]
|notable_commanders= -[[Vũ Văn Giai]]<br>-[[Nguyễn Duy Hinh]]
[[Hình: Flag of the ARVN 3rd Infantry Division.svg|nhỏ|trái|120px|<center>Quân kỳ]]
|anniversaries=
}}
'''Sư đoàn 3 Bộ binh'''<ref>[http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=137994&zoneid=3#.UhxtldLwkSQ Cựu quân nhân Sư đoàn 3 Bộ binh họp mặt]</ref> là đơn vị cấp [[sư đoàn]] của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], tồn tại từ năm 1971 đến năm 1975. Biên chế sư đoàn bộ binh 3 thuộc [[Quân đoàn I Việt Nam Cộng Hòa]], giám sát khu vực phía Bắc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
 
'''SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH
Sư đoàn 3 Bộ binh ban đầu đặt bản doanh tại Căn cứ Ái Tử, [[Quảng Trị]]. Sau Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Sư đoàn lui về căn cứ Hòa Khánh, Đà Nẵng chịu trách nhiệm bảo vệ Quảng Nam, Đà Nẵng và một phần phía Tây tiểu khu Quảng Tín.
*''Bản doanh: ''Căn cứ Hòa Khánh, Đà Nẵng.''<ref> Nơi đặt Bộ Tư lệnh. Còn gọi là Hậu cứ</ref>
[[Hình:Flag of the ARVN 3rd Infantry Division.svg|nhỏ|phải|250px|Quân kỳ Sư đoàn 3]]
 
'''Sư đoàn 3 Bộ binh''',<ref>[http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=137994&zoneid=3#.UhxtldLwkSQ Cựu quân nhân Sư đoàn 3 Bộ binh họp mặt]</ref> là một trong mười một Sư đoàn Bộ binh và cũng là đơn vị "con út" của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Là một trong ba đơn vị Chủ lực quân trực thuộc [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và Quân khu 1]], tồn tại từ năm 1971 đến 1975, trách nhiệm bảo an khu vực địa đầu giới tuyến Việt Nam Cộng hòa. Sư đoàn 3 Bộ binh ban đầu đặt Bộ Tư lệnh tại Căn cứ Ái Tử, Quảng Trị. Năm 1972, trong trận mùa hè đỏ lửa Sư đoàn đã để mất Quảng Trị, phải lui về căn cứ Hòa Khánh, Đà Nẵng để bổ sung thêm quân và tái trang bị.
==Lịch sử==
Đầu thập niên 1970, trước việc quân Mỹ, đặc biệt là các đại đơn vị như Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Thủy quân lục chiến, Sư đoàn 101 Kỵ binh không vận, Lữ đoàn 9 Viễn chinh, lần lượt rút về Mỹ, để lại những khoảng trống lớn trong thế trận phòng thủ phía Bắc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Bên cạnh đó, phía [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] ngày càng gia tăng áp lực mạnh mẽ trên địa bàn chiến trường [[Các địa bàn quân sự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam#B5|B5 Bắc Quảng Trị]]. So sánh đơn thuần về binh lực, dù các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam yếu hơn đối phương, nhưng lại có ưu thế về thế chủ động và sẵn sàng hơn nhiều. Phía Quân đội Nhân dân Việt Nam liên tục tổ chức các hoạt động tấn công mạnh từ phía bắc của vĩ tuyến 17 qua vùng phi quân sự bờ Nam sông Bến Hải thuộc vùng lãnh thổ do phía [[Việt Nam Cộng hòa]] kiểm soát, thông qua [[đường mòn Hồ Chí Minh]] và đường 9 Nam Lào.
 
Nhờ các hoạt động tình báo mà phía [[Việt Nam Cộng hòa]] đã phát hiện sự chuẩn bị của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Các chỉ huy cao cấp đều dự đoán trước về cuộc tấn công mới còn dữ dội hơn năm 1968 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Mặc dù vậy, các đơn vị chủ lực hiện có của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] đều bị dàn mỏng lực lượng giữ đất, cộng với việc quá phụ thuộc lớn vào sự yểm trợ của quân Mỹ, nên việc Quân đội Hoa Kỳ rút quân đã tạo ra lỗ hổng ngày càng lớn cho hệ thống phòng thủ phía Bắc và phía Tây của Việt Nam Cộng hòa.
 
==Lược sử hình thành==
Trước tình hình đó, cuối năm 1971, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa quyết định thành lập thêm một sư đoàn bộ binh nữa để chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ với 2 đơn vị bạn là Sư đoàn 1 và Sư đoàn 2 bộ binh. Ngày [[1 tháng 10]] năm 1971, '''Sư đoàn 3 Bộ binh''' được thành lập tại căn cứ Ái Tử, Quảng Trị theo Nghị định số 2334-QP/TCTT/NĐ ngày [[31 tháng 10]] năm 1971, trực thuộc Quân đoàn I, chịu trách nhiệm an ninh khu vực giới tuyến và toàn bộ địa bàn tỉnh [[Quảng Trị]], được mệnh danh là "Sư đoàn Bến Hải".
Đầu thập niên 1970, trước xu hướng quân Mỹ rút dần khỏi chiến trường Việt Nam, [[Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đội miền Bắc]] ngày càng gia tăng áp lực mạnh mẽ trên địa bàn chiến trường [[Các địa bàn quân sự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam#B5|B5 Bắc Quảng Trị]]. So sánh đơn thuần về binh lực, dù các đơn vị Quân đội Bắc Việt yếu hơn Quân đội VNCH, nhưng lại có ưu điểm về thế chủ động và sẵn sàng hơn nhiều. Phía Bắc Việt liên tục tổ chức các hoạt động tấn công mạnh từ phía bắc của vĩ tuyến 17 qua vùng phi quân sự bờ Nam sông Bến Hải thuộc vùng lãnh thổ do phía [[Việt Nam Cộng hòa]] kiểm soát, thông qua đường mòn Hồ Chí Minh và đường 9 Nam Lào.
 
Nhờ các hoạt động tình báo mà phía [[Việt Nam Cộng hòa]] đã phát hiện sự chuẩn bị của đối phương. Các chỉ huy cao cấp đều dự đoán trước về cuộc tấn công mới còn dữ dội hơn năm 1968 của đối phương. Mặc dù vậy, các đơn vị chủ lực hiện có của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đều bị dàn mỏng lực lượng giữ đất, cộng với việc quá phụ thuộc lớn vào sự yểm trợ của quân Mỹ, nên việc Quân đội Hoa Kỳ rút quân đã tạo ra lỗ hổng ngày càng lớn cho hệ thống phòng thủ phía Bắc và phía Tây của Việt Nam Cộng hòa.
Việc thành lập Sư đoàn này khiến cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mất uy tín với Hoa Kỳ vì cam kết sẽ không tăng thêm quân số, vì như thế khiến Hoa Kỳ phải gia tăng viện trợ và mất lòng dư luận trong nước.{{fact}}
 
Trước tình hình đó, cuối năm 1971, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa quyết định thành lập thêm một Sư đoàn Bộ binh nữa tại Quân khu 1 để chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ với 2 đơn vị bạn là Sư đoàn 1 và Sư đoàn 2 Bộ binh. Ngày 01 tháng 10 năm 1971, Sư đoàn 3 Bộ binh được thành lập tại căn cứ Ái Tử (Quảng Trị)<ref> Nghị định số 2334-QP/TCTT/NĐ ngày 31 tháng 10 năm 1971</ref> trực thuộc Quân đoàn I, chịu trách nhiệm an ninh khu vực giới tuyến và toàn bộ địa bàn tỉnh [[Quảng Trị]], được mệnh danh là "Sư đoàn Bến Hải". Việc thành lập đơn vị này làm Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mất uy tín với Mỹ.
Trừ Trung đoàn 2 Bộ binh là đơn vị chủ lực, Sư đoàn được thành lập vội vã từ đơn vị tân lập với thành phần chủ yếu từ các quân nhân vi phạm kỷ luật như đi phép quá hạn, quậy phá hoặc bị báo cáo đào ngũ, các quân nhân bị giam trong các quân lao ra được "phục hồi quân ngũ" (hồi ngũ). Vì vậy, sư đoàn còn có hỗn danh là "Sư đoàn Giới tuyến" hoặc "Sư đoàn Trừng giới".
 
Trừ Trung đoàn 2 là đơn vị chủ lực của Sư đoàn 1 chuyển qua, Sư đoàn được thành lập vội vã từ đơn vị tân lập với thành phần chủ yếu từ các quân nhân vi phạm kỷ luật như đi phép quá hạn, ba gai v.v... Hoặc bị báo cáo đào ngũ, ở quân lao ra được "phục hồi quân ngũ" (hồi ngũ). Vì vậy, Sư đoàn còn có hỗn danh là "Sư đoàn Giới tuyến" hoặc "Sư đoàn Trừng giới".
Việc trang bị cho Sư đoàn cũng khá vất vả khi chỉ có Trung đoàn 2 là được trang bị vũ khí cá nhân như M16, M60, M79 và tên lửa chống tăng vác vai M72, trong khi đó, 2 Trung đoàn còn lại được trang bị hỗn độn. Ví dụ như cả Đại đội chỉ có vài khẩu M16 và M79, còn lại sử dụng [[Súng trường M14|M14]] đã lỗi thời và thậm chí cả BAR, M1, chỉ có vài khẩu M72. Trung đoàn Pháo binh chỉ được trang bị pháo M2 105mm đã lỗi thời, trong khi đó các đơn vị bạn được trang bị lựu pháo M101 và M102, lựu pháo 155mm tân tiến hơn. Việc trang bị cho Sư đoàn phần lớn phải đi vay mượn từ những đơn vị bạn hoặc những vũ khí đã cũ được niêm yết trong Tổng kho Long Bình.
 
Sau khi thành lập không lâu, Sư đoàn phải bước vào tham chiến trong chiến dịch Xuân Hè 1972 trong tình trạng chưa huấn luyện hoàn chỉnh, sức chiến đấu yếu. Chỉ trong vòng 1 tháng, từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1972, các đơn vị của Sư đoàn bịhầu đánhnhư thiệttan hại nặng trước sức tấn công mãnh liệt của phía Quânđối độiphương. NhânBộ dânchỉ Việthuy Nam.rút Cáctoàn cănbộ cứvề ĐầuĐà MầuNẵng, Ba Hồ,lệnh Động Toàn,đoàn lần lượt thất thủ. Ngàytướng [[2 thángVăn 4Giai]] năm 1972,cùng một sự kiện gây chấn động xảy ra là việc Trung tá Phạm Văn Đính, Trung đoàn trưởng, và Trung tá Vĩnh Phong, Trung đoàn phó, cùng 600 binhsốTrungquan đoàncao 56cấp Bộbị binhbắt đónggiam trong cănlàm cứsụp Carollđổ ratuyến đầuphòng hàngthủ phía Quân đội Nhân dânBắc ViệtQuảng NamTrị.
 
Sau thất bại thảm hại, Sư đoàn lui về Đà Nẵng, đặt Bộ tư lệnh tại căn cứ Hoà Khánh và được tái tổ chức lại, chịu trách nhiệm an ninh khu vực các tỉnh Quảng Tín, Quảng Nam và Đặc khu Đà Nẵng (từ Quế Sơn, Quảng Tín đến Hải Vân, Đà Nẵng). Tướng [[Nguyễn Duy Hinh]] được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Sư đoàn được giao nhiệm vụ lấn chiếm lãnh thổ, tấn công và kiểm soát khu vực căn cứ West, đồi 1460 trước thời điểm hiệp định có hiệu lực, nhằm giành lợi thế kiểm soát lãnh thổ với phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân giải phóng]].
Trước tình hình này, Tư lệnh Sư đoàn là tướng [[Vũ Văn Giai]] đã gọi điện cho thượng cấp của mình là Trung tướng [[Hoàng Xuân Lãm]] - Tư lệnh Quân đoàn 1 để xin ý kiến, nhưng chỉ nhận được những chỉ đạo chung chung. Ngay chính Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]], nhiều lần cùng Thủ tướng [[Trần Thiện Khiêm]], đáp máy bay đến Huế họp bàn với tướng Hoàng Xuân Lãm, tướng [[Phạm Văn Phú]] (Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh), tướng Vũ Văn Giai, nhưng vẫn không đưa ra được quyết sách cụ thể. Cuối tháng 4 năm 1972, tướng Giai gọi điện báo cáo với tướng Lãm về tình hình nguy kịch của Sư đoàn, tuy nhiên, một lần nữa tướng Lãm không phản hồi biện pháp cụ thể. Trong hoàn cảnh không còn sự lựa chọn, tướng Giai đành phải ra lệnh rút toàn bộ những gì còn lại của Sư đoàn về [[Đà Nẵng]].
 
Đầu năm 1975, phía Bắc Việt mở [[chiến dịch Hồ Chí Minh]], quyết tâm giành thắng lợi quân sự cuối cùng. Các đơn vị chủ lực của Việt Nam Cộng hòa tại Vùng I và Vùng II nhanh chóng tan rã và rút chạy về phía Nam. Sư đoàn được lệnh rút về phòng tuyến sông Thu Bồn làm nút chận cho quân bạn rút lui. Tuy nhiên phòng tuyến nhanh chóng tan vỡ. Sư đoàn tiếp tục rút về tuyến phòng thủ [[Phước Tuy]] và tan rã tại đây ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Với thảm bại ở [[Quảng Trị]], ngày [[4 tháng 5]] năm 1972, tướng Vũ Văn Giai bị gọi về Bộ Tổng tham mưu để phúc trình sự việc, sau đó bị yêu cầu đến trình diện ở Phòng Thanh tra. Tai đây, tướng Giai bị giữ tại Đại đội Tổng hành dinh một tháng. Chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh truy tố tướng Giai và chuyển qua Khám Chí Hòa giam giữ chờ đưa ra tòa xét cử. Tòa án Quân sự Sài Gòn sau đó đã kết án tướng Vũ Văn Giai 5 năm tù vì tội "bất tuân thượng lệnh". Tướng Lãm cũng bị mất chức Tư lệnh Quân đoàn 1. Tướng [[Ngô Quang Trưởng]] được điều từ Quân đoàn 4 ra thay thế.
 
==Đơn vị trực thuộc và phối thuộc==
Có một số tài liệu ghi lại, trong thời gian đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, việc làm mất Quảng Trị từng khiến cho Tổng thống Thiệu muốn đổi phiên hiệu Sư đoàn 3 thành Sư đoàn 27 Bộ Binh vì ông cho rằng số 3 là con số xui. Tuy nhiên việc này đã được Trung tướng Ngô Quang Trưởng ngăn cản và cam kết sẽ biến Sư đoàn thành Sư đoàn Bộ Binh xuất sắc nhất Vùng I.{{fact}}
{|class="wikitable"
|-
! width= "1%" |TT
! width= "23%" |Đơn vị
! width= "23%" |Chú thích
! width= "1%" |TT
! width= "23%" |Đơn vị
! Chú thích
|-
|<center> 1<ref> Từ số 1 đến 3 là đơn vị "Tác chiến" trực thuộc Sư đoàn.</ref>
|<center> Trung đoàn 2
|
|<center> 10
|<center> Biệt đội Quân báo
|
|-
|<center> 2
|<center> Trung đoàn 56
|
|<center> 11
|<center> Biệt đội Kỹ thuật
|
|-
|<center> 3
|<center> Trung đoàn 57
|
|<center> 12
|<center> Biệt đội <br>Tác chiến Điện tử
|
|-
|<center> 4<ref> Từ số 4 đến số 18 là đơn vị "Yểm trợ" trực thuộc Sư đoàn.</ref>
|<center> Đại đội<br>Tổng hành dinh
|
|<center> 13
|<center> Tiểu đoàn Quân y
|
|-
|<center> 5
|<center> Đại đội Trinh sát
|
|<center> 14
|<center> Tiểu đoàn Truyền tin
|
|-
|<center> 6
|<center> Đại đội Quân cảnh
|
|<center> 15
|<center> Tiểu đoàn Tiếp vận
|
|-
|<center> 7
|<center> Đại đội Công vụ
|
|<center> 16
|<center> Tiểu đoàn<br>Công binh chiến đấu
|
|-
|<center> 8
|<center> Đại đội Quân vận<br>(Quân xa)
|
|<center> 17
|<center> Trung đoàn Pháo binh
|Các Tiểu đoàn: 30 (155 ly), 31,32,33 (105 ly). Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn
|-
|<center> 9
|<center> Đại đội<br>Hành chính Tài chính
|
|<center> 18
|<center> Thiết đoàn 11
|Thuộc "Lữ đoàn 1 Kỵ binh". Phối thuộc và dưới sự điều động của Tư lệnh Sư đoàn
|-
|}
 
==Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 3/1975==
Sau thất bại thảm hại, Sư đoàn được tái tổ chức lại, chịu trách nhiệm an ninh Tiểu khu Quảng Nam, Đà Nẵng, từ Quế Sơn, Quảng Tín đến Hải Vân, Đà Nẵng. Tướng [[Nguyễn Duy Hinh]] được bổ nhiệm làm tư lệnh sư đoàn. Trong hơn một năm, Sư đoàn được củng cố và phục hồi được năng lực chiến đấu, bắt đầu thực hiện thành công trong các nhiệm vụ tái chiếm Quế Sơn, Tiên Phước.
{|class= "wikitable"
|-
!width= "1%" |TT
!width= "23%" |Họ và Tên
!width= "14%" |Cấp bậc
!width= "18%" |Chức vụ
!Chú thích
|-
|<center> 1
|<center> [[Nguyễn Duy Hinh]]<br>''Võ khoa Nam Định<ref>Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định</ref>
|<center> Thiếu tướng
|<center> Tư lệnh
|
|-
|<center> 2
|<center> [[Khưu Đức Hùng (Đại tá, Quân lực VNCH)|Khưu Đức Hùng]]
|<center> Đại tá
|<center> Tư lệnh phó
|
|-
|<center> 3
|<center> [[Nguyễn Huân (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Huân]]
|<center> nt
|<center> Tham mưu trưởng
|
|-
|<center> 4
|<center> [[Vũ Ngọc Hưởng (Đại tá, Quân lực VNCH)|Vũ Ngọc Hưởng]]<ref>Sinh năm 1933 tại Nam Định</ref><br>''Võ bị Đà Lạt K9
|<center> nt
|<center> Chỉ huy<br>Trung đoàn 2
|
|-
|<center> 5
|<center> [[Vĩnh Giác (Đại tá, Quân lực VNCH)|Vĩnh Giác]]<ref>Có tư liệu ghi là Vĩnh Dác. Sinh năm 1942 tại Thừa Thiên</ref></ref><br>''Võ bị Đà Lạt K16
|<center> nt
|<center> Chỉ huy<br>Trung đoàn 56
|Thay thế Trung tá [[Phạm Văn Đính (Trung tá, Quân lực VNCH)|Phạm Văn Đính]]<ref>Sinh năm 1937 tại Thừa Thiên, xuất thân khóa 9 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.</ref> chỉ huy đầu tiên và là người đã vận động cả Trung đoàn 56 Bộ binh đầu hàng đối phương tại mặt trận Quảng Trị năm 1972.
|-
|<center> 6
|<center> [[Tôn Thất Mẫn (Trung tá, Quân lực VNCH)|Tôn Thất Mẫn]]<ref>Có tư liệu ghi là Tôn Thất Mãn</ref>
|<center> Trung tá
|<center> Chỉ huy<br>Trung đoàn 57
|
|-
|}
 
===Trung đoàn Pháo binh===
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Sư đoàn được giao nhiệm vụ lấn chiếm lãnh thổ, tấn công và kiểm soát khu vực căn cứ West, đồi 1460 trước thời điểm hiệp định có hiệu lực, nhằm giành lợi thế kiểm soát lãnh thổ với phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]].
*'''Đơn vị phối thuộc
{|class= "wikitable"
|-
!width= "1%" |TT
!width= "25%" |Họ và Tên
!width= "12%" |Cấp bậc
!width= "16%" |Chức vụ
!width= "22%" |Đơn vị
!Chú thích
|-
|<center> 1
|<center> [[Nguyễn Hữu Cam (Trung tá, Quân lựcVNCH)|Nguyễn Hữu Cam]]<br>''Võ khoa Thủ Đức K3.<ref> Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.</ref>
|<center> Trung tá
|<center> Chỉ huy trưởng
|<center> Bộ chỉ huy<br>Trung đoàn
|
|-
|<center> 2
|<center> [[Trần Thanh Hào (Trung tá, Quân lực VNCH)|Trần Thanh Hào]]<br>''Võ bị Đà Lạt K13
|<center> nt
|<center> Chỉ huy phó
|
|
|-
|<center> 3
|<center> [[Nguyễn Hữu Thanh (Thiếu tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Hữu Thanh]]<br/>''Võ khoa Thủ Đức K5
|<center> Thiếu tá
|<center> Tiểu đoàn trưởng
|<center> Tiểu đoàn 30
|
|-
|<center> 4
|<center> [[Trần Văn Thiệt (Trung tá, Quân lực VNCH)|Trần Văn Thiệt]]<br>''Võ bị Đà Lạt K13
|<center> Trung tá
|<center> nt
|<center> Tiểu đoàn 31
|
|-
|<center> 5
|<center> [[Phạm Ngọc Bảo (Thiếu tá, Quân lực VNCH)|Phạm Ngọc Bảo]]<br>''Võ bị Đà lạt K12
|<center> Thiếu tá
|<center> nt
|<center> Tiểu đoàn 32
|
|-
|<center> 6
|<center> [[Nguyễn Bảo Cường (Thiếu tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Bảo Cường]]<br>''Võ bị Đà Lạt K13
|<center> nt
|<center> nt
|<center> Tiểu đoàn 33
|
|-
|}
 
==Tư lệnh Sư đoàn qua các thời kỳ==
Đầu năm 1975, phía Quân đội Nhân dân Việt Nam mở [[chiến dịch Hồ Chí Minh]], quyết tâm giành thắng lợi quân sự cuối cùng. Các đơn vị chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Vùng I và Vùng II nhanh chóng tan rã và rút chạy về phía Nam. Sư đoàn được lệnh rút về phòng tuyến sông Thu Bồn làm nút chận cho quân bạn rút lui. Tuy nhiên phòng tuyến nhanh chóng tan vỡ. Sư đoàn tiếp tục rút về tuyến phòng thủ [[Phước Tuy]] và tan rã tại đây ngày 30 tháng 4 năm 1975.
{|class= "wikitable"
 
==Đơn vị trực thuộc & yểm trợ==
* Trung đoàn 2 Bộ binh
* Biệt đội Quân báo
* Trung đoàn 56 Bộ binh
* Biệt đội Kỹ thuật
* Trung đoàn 57 Bộ binh
* Biệt đội Tác chiến Điện tử
* Đại đội Tổng hành dinh
* Tiểu đoàn Quân y
* Đại đội Trinh sát
* Tiểu đoàn Truyền tin
* Đại đội Quân cảnh
* Tiểu đoàn Tiếp vận
* Đại đội Công vụ
* Tiểu đoàn Công binh chiến đấu
* Đại đội Vận tải (Quân xa)
* Trung đoàn Pháo binh
* Đại đội Hành chính Tài chính
* Thiết đoàn 11 (thuộc [[Lữ đoàn 1 Kỵ binh]] phối thuộc)
 
==Các đời tư lệnh==
{|class="wikitable"
|-
!! stylewidth= "width:20px1%" |STTTT
!! stylewidth= "width:150px23%" |Họ tên& Tên
!! stylewidth= "width:100px15%" |Cấp bậc
!!width= style="width:120px16%" |Thời gian tạiTại chức
!Chú thích
|-
|<center> 1
|1
|<center> [[Vũ Văn Giai]]<br>''Võ bị Đà Lạt K10
|<center> Chuẩn tướng<ref>Cấp bậc khi nhậm chức</ref>
|Chuấn tướng
|Từ<center> 1/11/1971 đến 3/-5/1972
|Tư lệnh đầu tiên. Năm 1972 (Mùa hè đỏ lửa), bị buộc vào tội để mất Quảng Trị, phải ra Toà án Quân sự và bị xử 5 năm tù ở
|''Tư lệnh đầu tiên''
|-
|<center> 2
|2
|<center> [[Phạm Văn Chung (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Văn Chung]]<ref>Sinh năm 1931 tại Hà Nội</ref><br>''Võ bị Đà Lạt K4
|[[Phạm Văn Chung]]
|<center> Đại tá
|Từ<center> 3/51972 đến 95/1972-6/1972
|''Xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn trong thời gian chờ bổ nhiệm Tư lệnh chính thức''
|
|-
|<center> 3
|<center> [[Nguyễn Duy Hinh]]
|<center> Chuẩn tướng
|<center> 6/1972-3/1975
|Tư lệnh cuối cùng
|-
|3
|[[Nguyễn Duy Hinh]]
|Chuẩn tướng
|Từ 9/6/1972 đến 29/3/1975
|''Tư lệnh cuối cùng''
|}
 
==Xem thêm==
* [[Lục quân Việt Nam Cộng hòa]]
==Chú thích==
{{Tham khảo|2}}
 
==Xem thêm==
*[[Lục quân Việt Nam Cộng hòa]]
 
==Tham khảo==
*Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
* {{chú thích sách|title=Encyclopedia of the Vietnam War| first= Spencer C. |last=Tucker |year=2000 |publisher=[[ABC-CLIO]]| isbn=1-57607-040-9 |location=Santa Barbara, California |pages=526&ndash;533}}
 
* Trần Ngọc Thống & Hồ Đắc Huân, ''Lược sử Quân lực VNCH'', 2011.
==Liên kết==
*{{chú thích sách|title=Encyclopedia of the Vietnam War| first= Spencer C. |last=Tucker |year=2000 |publisher=[[ABC-CLIO]]| isbn=1-57607-040-9 |location=Santa Barbara, California |pages=526&ndash;533}}
 
{{ARVN}}