Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tuồng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: ( → ( (8), Chủ Tịch → Chủ tịch using AWB
Dòng 7:
Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyền thuyết ghi rằng vào thời [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] năm 1005, một kép hát [[Người Trung Quốc|người Hoa]] tên là [[Liêu Thủ Tâm]] đến [[Hoa Lư]] và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên [[nhà Tống]] và được vua [[Lê Long Đĩnh]] thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.<ref name="a">"Hát bội". ''Thế giới Tự do'' Tập Tập X Số 8. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 25</ref>
 
Sang thời [[nhà Trần]], Hưng Đạo Đại vương [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] bắt được một tên quân [[nhà Nguyên]] tên là [[Lý Nguyên Cát]] vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở ''Vương mẫu hiến đào'' để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.<ref name="a" /> Các loại vai diễn cũng theo sự kiện này lần đầu được ghi nhận, như đán nương ( đào), châu tử ( tướng), sửu nô ( hề),..
 
Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là [[Đào Duy Từ]] ([[1572]]-[[1634]]). Ở [[Miền Trung (Việt Nam)|Miền Trung]] Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"... Còn trở vào trong, được gọi là Hát Bội hay Bộ.
Dòng 19:
Ở [[Hà Nội]] vào đầu [[thế kỷ 20]] có một rạp hát riêng diễn tuồng hát bội, gọi là rạp Quảng Lạc. Lối diễn thì giống như lối tuồng miền Trung cả.<ref name="Hà"/>
 
Tới những năm khi Chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|VNDCCH]] thành lập, ban đầu Tuồng bị coi là tàn dư phong kiến, nhưng sau đó đã được đánh giá nghiêm túc và được chính Chủ Tịchtịch [[Hồ Chí Minh]] xem và khen ngợi, Tuồng trở thành loại hình sân khấu được công nhận là đặc sắc và được phát triển, với sự tập hợp các nghệ nhân Bắc, Trung, Nam, thành lập các đoàn hát và mở lớp truyền thụ, xuất hiện hàng loạt nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ tiếp tục kế thừa và sáng tạo vốn quý của nghệ thuật Việt Nam, là một trong những loại hình sân khấu chủ yếu của Việt Nam suốt thế kỉ 20, được công chúng yêu thích.
 
Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam, bước vào thời kì hội nhập, từ những năm 90 của thế kỉ XX, Tuồng đang mất dần vị thế và khán giả, thiếu hụt nhân lực và có nguy cơ mai một.
Dòng 31:
Mỗi loại nhân vật của Tuồng lại có một lối diễn khác nhau, chính diện thường ngay thẳng, cương trực, đi đứng đàng hoàng, còn phản diện thì gian xảo, láo liên, uốn éo. Nhất nhất đều phân thành từng bộ riêng, không thể diễn bộ "Trung" cho vai "Nịnh". Thậm chí lên [[ngựa]] xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung tướng khác bộ dạng nịnh thần. Mọi động tác đã thành thông lệ hay ước lệ.
 
Lối múa, đi và đứng có những động tác cách điệu, trong nghề gọi là ''bê'', ''xiên'', ''lỉa'' và ''lăn''<ref>Trần Văn Khê. tr 304.</ref>, ''khai, ký, cầu, bẻ lông trĩ, bẻ cờ'',...
 
=== Điệu hát ===
Dòng 58:
 
==== Trang phục ====
Phục trang của các nhân vật Tuồng dựa theo kiểu phục trang của vua quan trong triều nếu là các vai vua quan hoặc theo kiểu phục trang của dân dã nếu là người bình thường.
 
Trang phục Tuồng có vài nét tương tự Hí kịch Trung Quốc, như mão lông [[Trĩ đỏ khoang cổ|trĩ]], cờ lệnh sau lưng, vạt che trước, tuy nhiên trang phục Tuồng vẫn gần gũi với trang phục dân tộc Việt Nam và thường đơn giản, dễ dàng cho nghệ sĩ biểu diễn có thể lăn lộn, múa.
Dòng 103:
*''Tam nữ đồ vương'' ([[thế kỷ 17]])
Với các trích đoạn hay như Lão Tạ lăn lửa, Phương Cơ giả điên qua ải, Phàn Định Công đề cờ
* Trảm Trịnh Ân ( Bây giờ thường gọi là Đào Tam Xuân)
Với các trích đoạn hay Đào Tam Xuân đề cờ, Cao Hoài Đức rọi đèn,
*''Diễn Võ Đình'' (soạn giả: [[Đào Tấn]], [[thế kỷ 19]])
*''Ngoại tổ dâng đầu'' (soạn giả: [[Nguyễn Hiển Dĩnh]], thế kỷ 19).<ref name="a" />
*Trầm Hương các ( [[Đào Tấn]])
Với trích đoạn Đát Kỷ đoạt hồn, thường bị nhiều đoàn hát tránh diễn vì sợ ma quỷ
*''Phụng Nghi Đình''
Dòng 115:
*Lý Phụng Đình
*Võ Tam Tư trảm Cáo (Hồ Nguyệt Cô hóa cáo)
*Hộ sanh đàn ( Tác giả Đào Tấn)
Với lớp Tiết Cương chống búa, Lan Anh lạc đẻ,
*Nghêu sò ốc hến ( Tuồng hài dân gian)
 
== Những diễn viên Tuồng nổi tiếng ==
Dòng 124:
*NSND Quang Tốn
*NSND [[Ngô Thị Liễu]]
*NSND [[Nguyễn Nho Túy]] ( Đội Tảo)
*NSND [[Phạm Chương]]
*NSND [[Nguyễn Phẩm]]