Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bella Akhatovna Akhmadulina”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TVT-bot (thảo luận | đóng góp)
BOT Thêm thể loại Nhân vật đang sống
Nguyen01 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 10:
}}
 
'''Bella (Izabella) Akhatovna Akhmadulina''' ([[tiếng Nga]]: Белла Ахатовна Ахмадулина; sinh [[ngày 10]] [[tháng 4]] [[năm 1937]]) là một nữ [[nhà văn]], [[nhà thơ]] [[Nga]] lớn của nửa cuối [[thế kỷ 20]].
 
==Tiểu sử==
Bella Akhmadulina sinh ở [[Moskva]]. Biết làm thơ từ nhỏ, năm 1955 in bài thơ đầu tiên trên báo Комсомольская правда (Sự thật thanh niên). Tốt nghiệp trường viết văn [[Maxim Gorky]] năm 1960. Năm 1962 in tập thơ đầu tiên, ''''Струна'''' (Dây đàn), sau đó là các tập ''''Уроки музыки'''' (Những giờ học nhạc, 1970);'''' Стихи'''' (Thơ, 1975); ''''Метель'''' (Bão tuyết, 1977); ''''Свеча'''' (Ngọn nến, 1977); ''''Тайна'''' (Điều bí mật, 1983);'''' Сад'''' (Khu vườn, [[Giải thưởng Nhà nước [[Liên Xô]] năm 1989).
 
Nét chính của thơ Bella Akhmadulina là nhịp điệu khẩn trương, hình thức tao nhã và sự tiếp tục truyền thống thơ cổ điển. Nhà thơ [[Joseph Brodsky]] ([[giải Nobel Văn học]] năm [[1986]]) gọi Bella Akhmadulina là "người thừa kế của trường phái thơ [[Mikhail Yuryevich Lermontov|Lermontov]] – [[Boris Leonidovich Pasternak|Pasternak]] trong thơ ca Nga". Ngoài thơ sáng tác, Bella Akhmadulina còn là người dịch nhiều nhà thơ cổ điển của [[Gruzia]] và là tác giả của nhiều tập sách viết về các nhà thơ lớn như [[Alexander Sergeyevich Pushkin]], [[Mikhail Yuryevich Lermontov]], [[Anna Akhmatova]], [[Marina Ivanovna Tsvetaeva]]...
 
Bella Akhmadulina là hội viên của [[Hội nhà văn Nga]], [[Hội Văn bút Nga]], Hội bạn bè của Bảo tàng Pushkin, thành viên danh dự của [[Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Mỹ]]. Bà được tặng nhiều giải thưởng của [[Liên Xô]], [[Nga]] và nhiều nước khác, trong đó: [[giải thưởng Nhà nước Liên Xô]] (1989), giải Nosside ([[Ý]], 1992), giải Independent (Triumph, 1993), giải Pushkin ([[Đức]], 1994). Năm 1984 bà được tặng huân chương Hữu nghị các dân tộc, các năm 1997 và 2007 được tặng huân chương "Vì công lao với Tổ quốc", [[năm 2004]] được tặng giảiGiải thưởng Nhà nước [[Liên bang Nga]].
 
Bella Akhmadulina là vợ đầu của nhà thơ Yevgeny Yevtushenko, vợ của nhà văn Yuryj Nagibin, và vợ của nghệ sĩ nhà hát Boris Messarera.
 
Bella Akhmadulina hiện sống và làm việc ở [[Moskva]].
 
==Tác phẩm==
*«Струна» (1962)
*«Озноб» (Франкфурт, 1968)
*«Уроки музыки» (1969)
*«Стихи» (1975)
*«Свеча» (1977)
*«Сны о Грузии» (1977, 1979)
*«Метель» (1977)
*альманах «Метрополь» («Много собак и собака», 1980)
*«Тайна» (1983)
*«Сад» (1987)
*«Стихотворения» (1988)
*«Избранное» (1988)
*«Стихи» (1988)
*«Побережье» (1991)
*«Ларец и ключ» (1994)
*«Шум тишины» (Иерусалим, 1995)
*«Гряда камней» (1995)
*«Самые мои стихи» (1995)
*«Звук указующий» (1995)
*«Однажды в декабре» (1996)
*«Созерцание стеклянного шарика» (1997)
*«Собрание сочинений в трех томах» (1997)
*«Миг бытия» (1997)
*«Нечаяние» (стихи-дневник, 1996—1999)
*«Возле елки» (1999)
*«Друзей моих прекрасные черты» (2000)
*«Стихотворения. Эссе» (2000)
*«Зеркало. XX век» (стихи, поэмы, переводы, рассказы, эссе, выступления, 2000)
 
==Một vài bài thơ==