Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Alaska (CB-1)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n ct
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 77:
|}
 
'''USS ''Alaska'' (CB–1)''', chiếc tàu thứ ba của [[Hải quân Hoa Kỳ]] được đặt tên theo [[vùng lãnhquốc thổhải]] lúc đó và [[Alaska|tiểu bang hiện nay]], là chiếc dẫn đầu của [[Alaska (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Alaska'']] vốn dự tính bao gồm sáu tàu tuần dương lớn.<ref name = "Fitzsimons 1 58">Fitzsimons, Volume 1, 58.</ref><ref group=A>Nhiều sử gia hiện đại tin rằng những chiếc ''Alaska'' cần được xếp như những [[tàu chiến-tuần dương]]. Xem [[Alaska (lớp tàu tuần dương)#"Tàu tuần dương lớn" hay "tàu chiến-tuần dương"?]].</ref> Không giống thông lệ đang có trong việc đặt tên thiết giáp hạm hay tàu tuần dương của Mỹ,<ref group=A> Với một số rất ít ngoại lệ, các thiết giáp hạm Mỹ được đặt tên theo các tiểu bang, ví dụ như [[USS Nevada (BB-36)|''Nevada'']] hoặc [[USS New Jersey (BB-62)|''New Jersey'']], trong khi tàu tuần dương được đặt tên theo thành phố, ví dụ như [[USS Juneau (CL-52)|''Juneau'']] hoặc [[USS Quincy (CA-71)|''Quincy'']].</ref> tất cả những chiếc trong lớp, kể cả ''Alaska'', đều được đặt tên theo "lãnh thổ hoặc [[vùng quốc hải Hoa Kỳ|vùng quốc hải]]" của Hoa Kỳ nhằm nhấn mạnh vai trò trung gian của chúng giữa [[thiết giáp hạm]] và [[tàu tuần dương]] hạng nặng hay hạng nhẹ thông thường.<ref>Greer, 84.</ref><ref group=A>[[Alaska]] và [[Hawaii]] là những "vùng quốc hải" của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ vào lúc đó; chúng gia nhập Liên bang như những tiểu bang thứ 49 và 50 vào năm 1959. </ref>
 
Khi lớp tàu của nó được đặt hàng vào ngày [[9 tháng 9]] năm [[1940]], nó đưa đến sự ngạc nhiên cho nhiều người vì Hải quân Mỹ chưa bao giờ hoàn tất một [[tàu chiến-tuần dương]] trong suốt lịch sử của nó, ngay cả vào giai đoạn cực thịnh của kiểu tàu này trong những năm [[1906]]- [[1916]].<ref name= Miller200>Miller, 200.</ref><ref group=A>Hai chiếc tàu sân bay nổi tiếng thuộc [[Lexington (lớp tàu sân bay)|lớp ''Lexington'']] trong Thế Chiến II [[USS Lexington (CV-2)|''Lexington'' (CV-2)]] và [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'' (CV-3)]] nguyên là một phần của một [[Lexington (lớp tàu chiến-tuần dương)|lớp tàu chiến-tuần dương]] vào năm 1916 bao gồm sáu chiếc. Tuân thủ [[Hiệp ước Hải quân Washington]], chúng được cải biến thành [[tàu sân bay]], trong khi bốn chiếc còn lại [[USS Constellation (CC-2)|''Constellation'' (CC-2)]], [[USS Ranger (CC-4)|''Ranger'' (CC-4)]], [[USS Constitution (CC-5)|''Constitution'' (CC-5)]] và [[USS United States (CC-6)|''United States'' (CC-6)]] đều bị hủy bỏ.</ref> Tuy nhiên, việc chế tạo được xúc tiến, và ba chiếc đầu tiên của lớp là ''Alaska'', [[USS Guam (CB-2)|''Guam'']] và [[USS Hawaii (CB-3)|''Hawaii'']] lần lượt được đặt lườn tại hãng [[New York Shipbuilding Corporation]] thuộc [[Camden]], [[New Jersey]] vào các ngày [[17 tháng 12]] năm [[1941]], [[2 tháng 2]] năm [[1942]] và [[20 tháng 12]] năm [[1943]].