Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ooid”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: replaced: 1 loại → một loại using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
[[Tập tin:OoidSurface01.jpg|nhỏ|Ooid trên bề mặt của đá vôi; [[Thành hệ Carmel (địa chất)|Thành hệ Carmel]] (Giữa [[kỷ Jura]]) miền nam Utah, Hoa Kỳ.]]
[[Tập tin:CarmelOoids.jpg|nhỏ|Một lát mỏng chứa ooid và canxit thành hệ Carmel, giữa [[Kỷ Jura]], miền nam Utah, Hoa Kỳ.]]
'''Ooid''' nhỏ (≤2 mm), hình tròn,các hạt [[Đá trầm tích|trầm tích]] thường nhỏ (đường kính ≤2 mm) hình phỏng cầu, được "trángche phủ" (tạo lớp), thường bao gồm [[Canxicanxi cacbonat]], nhưng đôi khi được làmtạo ra từ khoáng chấtvật gốc [[sắt]] hoặc [[Khoáng vật phốt phát|phốt phát]]. Ooid thường hình thành ở [[Đáy đại dương|đáy biển]], phổ biến nhất ở vùng biển nhiệt đới (xung quanh [[Bahamas]] hoặc ở [[Vịnh Ba Tư]]). Sau khi bị chôn vùi dưới [[trầm tích]] bổ sung, những hạt '''ooid''' có thể gắn kết với nhau tạo thành một loại [[đá trầm tích]] gọi là ''[[Oolite|oolit]]''. Oolit thường chứa canxi cacbonat; là một phân ngành của [[đá vôi]]. [[Pisolit|Pisoid]] khá giống ooid, nhưng đường kính lớn hơn 2 mm, thường lớn hơn đáng kể, như pisoid ở suối nước nóng Carlsbad ([[Karlovy Vary]]) ở [[cộng hòa Séc]].
 
== Hình thành ==
Một ooid hình thành như là một chuỗi các vòng đồng tâm xung quanh một hạt nhân. Các lớp chứa tinh thể được sắp xếp xuyên tâm, tiếp tuyến hay một cách ngẫu nhiên. Hạt nhân có thể là một mảnh vỏ vỡ, hạt thạch anh hoặc bất kỳ mảnh vỡ nhỏ nào khác. LoạiCác ooid gần đây nhất là [[aragonit]], một [[đa hình]] của canxi cacbonat, một số chứa [[canxit]] giàu [[magiê]] và một số chứa hai khoáng chất(canxit và aragonit). Ooid cổ có thể chứalà dạng canxit, hoặc là nguyên được kết tủa như canxit (như ở các [[biển canxit]]), hoặc được hình thành từ thứsự biến khácđổi (thay thế hình thể mới) của các ooid dạng aragonit (hoặc thay thếcác phầnlớp aragonit trong các ooid chứa cả hai chấtkhoáng vật). OoidCác ooid thủngkhuôn (hoặc các lỗ thủngkhuôn sau đó được lấp đầy bởi xichất măngkết dính canxit) xảy ra ở cả các loại đá mớitrẻ và đá cổ xưa, cho thấy sự loại bỏ của một đa hình có thể hòa tan (thường là aragonit).
 
== Biến đổi ==
Cho dù ooid loại canxit hay aragonit đều có thể được thay thế [[cấu trúc tinh thể]] bằng [[stronti]]/[[canxi]]. Điều này đã được chứng minh qua một số ví dụ là do nhiệt độ dao động trong [[Đại dương|môi trường biển]], làm ảnh hưởng đến [[độ mặn]], tạo điều kiện cho sự thay thế. Biển các hóa thạch ooid thường được hình thành trong khoảng thời gian [[biển canxit]], đặc biệt là trong [[kỷ Ordovic]] và [[kỷ Jura]]. Đặc điểm địa hoá của vùng biển này là [[tách giãn đáy đại dương]] và sự dao động tỷ lệ Mg/Ca. Tỉ lệ Mg/Ca thấp thíhcthích hợp cho việc kết tủa canxit chứa ít magiê.
 
== Chế độ phát triển ==
OoidsOoid với các tinh thể xuyên tâm (như aragonit ooid aragonit ở [[Hồ Muối Lớn]], Utah, MỸMỹ) phát triển bởi sự mở rộng lưới tinh thể ion. Chế độ của sự phát triển của ooid với tinh thể tiếp tuyến ít rõ ràng hơn. Chúng có thể được tích lũy trong một tinh thể nhỏ như "bông tuyết" trong trầm tích hay dưới nước, hay họchúng có thể kết tinh tại chỗ trên bề mặt ooid. Một giả thuyết của sự phát triển là do bồi đắp (giống như một quả cầu tuyết) từ trầm tích chứa aragonit mịn, canxit giàu magiê và canxit ítnghèo magiê, giải thích vì sao aragonit có hình chiếc kim xuất hiện trên vỏ canxit. Cả ooid xuyên tâm và tiếp tuyến, trên vỏ đều có sự phát triển của các mảnh rất nhỏ và mịn. Một số ooid mất một phần hoặc hoàn toàn các lớp tròn và thay vào đó là [[micrit]]. Việc kiểm tra ooid chứa micrit bằng cách quét kính hiển vi điện tử thường cho thấy bằng chứng các lỗ khoan do vi sinh vật sau đó được lấp đầy bởi xichất kết măngdính mịn.
 
== Yếu tố tăng trưởng ==
Có một vài yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của ooid: liên hệ giữa sự bão hoà của nước và canxi cacbontacacbonat, sự xuất hiện của hạt nhân, sự khuấy động của ooid, độ sâu, và vai trò của [[Vi sinh vật|các vi sinh vật]].
 
== Chú thích ==