Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Săn lợn rừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: 5 con → năm con, 6 con → sáu con, 8 con → tám con using AWB
n →‎Thời Phục Hưng: chính tả, replaced: cổ máy → cỗ máy using AWB
Dòng 32:
Thời kỳ Phục hưng đã cho thấy việc giảm đáng kể của rừng đối với nông nghiệp, do đó làm giảm bớt một số quần thể heo rừng. Lợn đang ngày càng bị săn bắn của người giàu, những người sử dụng vũ khí tối tân hơn là sử dụng giáo, dao găm, cung tên, bây giờ đã có vũ khí cho phép họ giết lợn xa một cách nhanh chóng và hiệu quả, chỉ cần giương súng từ xa, ngắm chuẩn và bắn một phát một thì có thể dễ dàng đoạt mệnh được một con lợn rừng. Việc giảm số lượng lợn dẫn đến sự hình thành của khu dự trữ săn bắn. Tình trạng bất ổn dân sự sau khi kết thúc cuộc Cách mạng Pháp chấm dứt đặc quyền phong kiến ​​và việc săn bắn đã được giải phóng dẫn đến giảm trong các quần thể heo rừng.
[[Tập tin:Hermann Freese - Die Eberjagd.jpg|580px|nhỏ|giữa|Cảnh săn lợn rừng]]
Ở Ấn Độ, những cuộc săn heo rừng là phổ biến trong văn hóa của người Jatts, người Gujjars, người Rajputs, người Sikh, người Maharajas, và với các nhân viên công chức của Anh trong thời Victoria và Edwardian. Theo ấn bản năm 1911 của Từ điển Bách khoa Anh (Encyclopædia Britannica) cho biết, săn lợn rừng được sự khuyến khích của chính quyền quân sự vì đây chính la đào tạo tốt cho binh lính bởi vì một con lợn rừng giật mình hay tức giận được coi như một cổcỗ máy chiến đấu trong tuyệt vọng do đó đào luyện cho người ta có một con mắt tốt, một bàn tay chắc chắn, một chỗ ngồi vững chắc, một cái đầu lạnh và một trái tim dũng cảm. Robert Baden-Powell, người sáng lập phong trào Hướng đạo đã viết một cuốn sách về chủ đề này. Michael Rosenthal cũng cho rằng đây là một môn thể thao thú vị.
 
===Ngày nay===