Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Mẫn (Tam Quốc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đổi hướng đến Lưu Miễn (Lưu Tống)
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Đổi hướng đến đây|Lưu Mẫn}}'''Lưu Mẫn''' (chữ Hán: 劉敏; ?-?), tự không rõ, quê ở huyện [[Tuyền Lăng]], quận [[Linh Lăng]], [[Kinh Châu|Kinh châu]] (nay là [[Linh Lăng]], thành phố [[Vĩnh Châu]], [[Hồ Nam]]), quan viên [[Thục Hán|Quý Hán]] thời [[Tam Quốc]].
#redirect [[Lưu Miễn (Lưu Tống)|Lưu Miễn]]
 
== Thân thế ==
Gia tộc của Lưu Mẫn vốn ở quận [[Bành Thành]], [[Từ Châu|Từ châu]]. Đến thời cụ của Lưu Mẫn là [[Lưu Xước]] (劉綽) đảm nhiệm chức quận trưởng quận Linh Lăng, cả gia tộc mới di chuyển đến Linh Lăng. Ông nội của Lưu Mẫn là [[Lưu Ưu]] (劉優), được cử [[hiếu liêm]], giữ chức Thượng thư Hữu phó xạ dưới triều [[Hán Hiến Đế]].<ref name="TQCTG14">[[Lư Bật]], ''Tam quốc chí tập giải'', ''Thục thư'', quyển 14: ''Lưu Ưu, Linh Lăng nhân. Phụ Xước, Bành Thành khởi gia, xuất bổ Linh Lăng thái thú, toại gia yên. Ưu thiểu hữu tuấn thanh, cử hiếu liêm. Hiến Đế thì, vi ngự sử đại phu, thiên thượng thư phó xạ. Tôn Mẫn, nhược quán dữ Tưởng Uyển câu tri danh, cử hiếu liêm. Hậu chủ Lưu Thiện thì, trừ thị ngự sử, củ sát danh thực, đình trung xưng đương. Dĩ công phong Vân đình hầu, gia trung thư thị lang, bái Thành Đô doãn.</ref> Lưu Mẫn cùng danh sĩ cùng quận là [[Tưởng Uyển]] kết làm thông gia.<ref name="TQC44">Trần Thọ, ''Tam quốc chí'', quyển 44, ''Thục chí'', quyển 14 - ''[[:zh:wikisource:三國志/卷44|Tưởng Uyển Phí Y Khương Duy truyện]]''.</ref>
 
== Phụ tá Thục Hán ==
Lưu Mẫn cùng [[Tưởng Uyển]] thời trẻ nổi tiếng trong quận, được cử hiếu liêm, cùng Tưởng Uyển tùy tùng [[Lưu Bị]]. Đến đầu những năm niên hiệu Kiến Hưng nhà Quý Hán (223-237), Lưu Mẫn giữ chức [[Thị ngự sử]], lấy phát hiện cùng đôn đốc mà được nhiều quan chức trong triều tán thưởng. Sau đó chuyển chức Hữu hộ quân kiêm Thiên tướng quân.
 
Năm 231, bởi sự tắc trách của [[Lý Nghiêm]] trong quá trình vận chuyển lương thảo, dẫn tới [[Chiến tranh Thục-Ngụy (228-234)|Bắc phạt]] thất bại, Lưu Mẫn cùng nhiều quan quân trong quân đội Bắc phạt theo [[Gia Cát Lượng]] dâng thư yêu cầu bãi miễn Nghiêm.<ref name="TQC40">Trần Thọ, ''Tam quốc chí'', quyển 40, ''Thục chí'', quyển 10 - ''[[:zh:wikisource:三國志/卷40|Lưu Bành Liêu Lý Lưu Ngụy Dương truyện]]''.</ref>
 
== Đại thắng Hưng Thế ==
{{main|Trận Hưng Thế}}
Năm 243, [[Vương Bình]] trở thành Đô đốc [[Hán Trung]], Lưu Mẫn được phong Đô đốc Tả hộ quân, hiệu Dương Uy tướng quân, điều tới trợ giúp [[Vương Bình]].<ref name="TQC44"/> Tháng hai cùng năm, Đại tướng quân [[Tào Ngụy|nước Ngụy]] là [[Tào Sảng]] dẫn 10 vạn quân đội tiến công vùng Hán - Xuyên. Khi đó, quân đội Quý Hán chỉ có khoảng 3 vạn người. Quân tiên phong của Ngụy khi đó đã tiến tới [[Lạc Cốc]]<ref>Nay tại tây nam [[Chu Chí]], [[Thiểm Tây]].</ref>. Nhiều tướng lĩnh lo sợ quân số hai bên chênh lệch quá lớn, đề nghị chỉ thủ vững thành trì, còn lại để mặc cho quân Ngụy tiến vào, nhằm kéo dài thời gian, khi đó quân Ngụy sẽ tự rút.<ref name="TQC43"/>
 
Tuy nhiên, Lưu Mẫn nhận thấy rằng hiện tại dân chúng chưa sơ tán, lương thực chưa kịp thu hoạch, nếu để quân địch tiến vào nội địa thì sẽ vô cùng nguy hại. [[Vương Bình]] nghe theo ý kiến của Lưu Mẫn, cho rằng kế hoạch trên không thể thi hành. Thay vào đó, Vương Bình phái Lưu Mẫn cùng [[Đỗ Kỳ]] (杜祺) đem quân đóng ở núi Hưng Thế, cắm cờ hiệu nghi binh<ref>Núi Hưng Thế (興勢山) nằm gần ải Dương Bình, nay tại phía tây trấn Vũ Hầu, huyện [[Miễn]], tỉnh [[Thiểm Tây]].</ref>, chờ lúc quân Ngụy tấn công thành Hoàng Kim<ref>Thành Hoàng Kim, đến thời Tấn đặt thành huyện Hoàng Kim, nay nằm tại trấn Kim Thủy, huyện [[Dương (huyện)|Dương]], tỉnh [[Thiểm Tây]].</ref>, bản thân Vương Bình dẫn quân tới đối kháng, kéo dài thời gian.<ref name="TQC43">Trần Thọ, ''Tam quốc chí'', quyển 43, ''Thục chí'', quyển 13 - ''[[:zh:wikisource:三國志/卷43|Hoàng Lý Lã Mã Vương Trương truyện]]''.</ref>
 
Kế hoạch thành công, Lưu Mẫn chiếm được núi, bố trí cắm cờ hơn trăm dặm để nghi binh, quân chi viện của [[Phí Y]] từ huyện Phù và Thành Đô kịp tới, khiến [[Tào Sảng]] bất lực rút quân. Nhờ công lao trong chiến dịch này mà Lưu Mẫn thụ tước ''Vân đình hầu''.<ref name="TQC44"/><ref name="TQCTG14"/>
 
== Cuối đời ==
Sau trận Hưng Thế, Lưu Mẫn chuyển sang giữ chức Trung thư Thị lang, rồi thái thú [[Thục (quận)|Thục quận]].<ref name="TQCTG14"/> Sau đó không còn ghi chép.
 
== Trong ''Tam quốc diễn nghĩa'' ==
Lưu Mẫn là một nhân vật nhỏ trong ''[[Tam quốc diễn nghĩa]]'', xuất hiện tại hồi 91, giữ chức Hữu hộ quân, theo [[Gia Cát Lượng]] Bắc phạt.<ref>[[:vi:wikisource:Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 91|Tam quốc diễn nghĩa, Hồi 91]]</ref>
 
== Tham khảo ==
* ''[[Tam quốc chí]]''
 
== Chú thích ==
{{tham khảo}}
{{Nhân vật Tam Quốc}}
[[Thể loại:Người Hồ Nam]]
[[Thể loại:Nhân vật chính trị Thục Hán]]
[[Thể loại:Nhân vật quân sự Thục Hán]]