Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Họ Bồ câu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 116.118.64.4 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Newone
n replaced: chôn cất → chôn cất using AWB
Dòng 61:
** Chi ''[[Reinwardtoena]]'' (3 loài)
** Chi ''[[Turacoena]]'' (2 loài)
 
* '''Phân họ không tên''' – cu cánh hoàng đồng và họ hàng
** Chi ''[[Turtur]]'' – bồ câu rừng châu Phi (5 loài; đặt vào đây không chắc chắn)
Hàng 72 ⟶ 71:
** Chi ''[[Petrophassa]]'' – bồ câu đá (2 loài)
** Chi ''[[Geopelia]]'' (3–5 loài)
 
* '''Phân họ Leptotilinae''' – bồ câu Zenaida và họ hàng
** Chi ''[[bồ câu Zenaida|Zenaida]]'' (7 loài)
Hàng 79 ⟶ 77:
** Chi ''[[Geotrygon]]'' – bồ câu cút (16 loài)
** Chi ''[[Starnoenas]]'' – bồ câu Cuba đầu lam
 
* '''Phân họ Columbininae''' – cu đất Mỹ
** Chi ''[[Columbina (chi)|Columbina]]'' (7 loài)
Hàng 86 ⟶ 83:
** Chi ''[[Scardafella]]'' – có lẽ thuộc về chi ''Columbina'' (2 loài)
** Chi ''[[Uropelia]]'' – cu đất đuôi dài
 
* '''Phân họ không tên''' – cu đất Ấn Độ-Thái Bình Dương
** Chi ''[[Gallicolumba]]'' (16-17 loài còn sinh tồn, 3-4 loài mới tuyệt chủng)
** Chi ''[[Trugon]]'' – cu đất mỏ dày
 
* '''Phân họ Otidiphabinae''' – bồ câu gà lôi
** Chi ''[[Bồ câu gà lôi|Otidiphaps]]'' – bồ câu gà lôi
 
* '''Phân họ Didunculinae''' – bồ câu mỏ răng
** Chi ''[[Didunculus]]'' – bồ câu mỏ răng
 
* '''Phân họ Gourinae''' – quan cưu
** Chi ''[[Goura]]'' (3 loài)
 
* '''Phân họ không tên ("Treroninae"?)''' – gầm ghì và bồ câu lục, bồ câu ăn quả
** Chi ''[[Chi Gầm ghì|Ducula]]'' – gầm ghì (36 loài)
Hàng 110 ⟶ 102:
** Chi ''[[Drepanoptila]]'' – bồ câu lông chẻ
** Chi ''[[Alectroenas]]'' – bồ câu lam (3 loài sinh tồn)
 
* '''Phân họ [[Raphinae]]''' – chim Dodo và họ hàng
** Chi ''[[Raphus]]'' – chim Dodo ([[tuyệt chủng]]; cuối thế kỷ 17)
** Chi ''[[Pezophaps]]'' – đô đô Rodrigues ([[tuyệt chủng]]; khoảng năm 1730)
 
* '''Vị trí chưa được giải quyết'''
** Chi ''[[Caloenas]]'' – bồ câu Nicobar
Hàng 135 ⟶ 125:
Trong nhãn quan của [[tôn giáo đa thần]], với sự định giá một cách khác khái niệm trong trắng, không đối lập nó mà hòa nhập nó với tình yêu xác thịt, bồ câu con chim của [[nữ thần Aphrodite]], biểu thị cho ái ân trọn vẹn mà người yêu thường tặng cho đối tượng của mình.
 
Nhưng quan niệm thực ra chỉ khác nhau về bề ngoài ấy đã làm cho bồ câu nhiều khi trở thành biểu tượng cho cái không thể tử vong trong con người, tức là bản nguyên của sự sống, [[linh hồn]]. Với tư cách ấy trên một số vại [[chôn cất]] của người [[Hy Lạp|Hi Lạp]], bồ câu được họa hình uống từ một cái bình tượng trưng cho nước nguồn của trí nhớ. Hình ảnh này được tiếp nhận vào trong hệ hình tượng của [[kitô giáo|đạo Kitô]], ví dụ như trong truyện [[tử vì đạo]] của [[thánh Polycarpe]], một con chim bồ câu đã bay ra từ thi hài của vị thánh này.
 
Tất cả những biểu trưng ấy xuất phát hiển nhiên từ vẻ đẹp và sự duyên dáng của con chim này, từ màu trắng tinh khiết và tiếng gù êm ái của nó. Cái đó giải thích vì sao trong ngôn ngữ thông thường nhất cũng như cao siêu nhất, trong lối nói lóng của dân [[Paris]] cũng như trong Tuyệt diệu ca, từ bồ câu có mặt trong số những ẩn dụ phổ biến nhất ngợi ca người phụ nữ. "Linh hồn càng tiến gần tới ánh sáng bao nhiêu", [[Jean Daniélou]] viết, dẫn lời [[thánh Grégoire]] ở [[Nysse]], "nó càng trở nên đẹp bấy nhiêu và trong ánh sáng đó sẽ tiếp nhận hình bồ câu". Thế nhưng chẳng phải người đang yêu đương say đắm vẫn gọi người mình yêu là "[[linh hồn]] của anh ơi" cuối cùng xin ghi chú rằng chim bồ câu là một con chim đặc biệt dễ gần, là điều làm gia tăng giá trị luôn luôn chính diện của biểu tượng này.