Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cù lao Phố”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Thông tin khác: replaced: chôn ở → chôn ở using AWB
Dòng 1:
[[Tập tin:Một nhánh sông Đồng Nai chảy qua cù lao Phố.jpg|nhỏ|phải|200px|Một nhánh sông Đồng Nai chảy qua Cù lao Phố. Cầu trong ảnh là [[cầu Ghềnh]].<ref>Thông tin thêm: Tối ngày 6 tháng 2 năm 2011 tại cầu Ghềnh đã xảy ra [[tai nạn giao thông]] thảm khốc giữa [[tàuTàu hỏa|xe lửa]] và [[ôÔ tô|xe ô tô]] [http://dantri.com.vn/c20/s20-456064/vu-tau-gay-tai-nan-o-cau-ghenh-xac-dinh-loi-cua-nha-tau.htm]</ref>]]
'''Cù lao Phố''' là một cù lao nằm trên [[sông Đồng Nai]], nay là xã [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|Hiệp Hòa]] thuộc thành phố [[Biên Hòa]], tỉnh [[Đồng Nai]], [[Việt Nam]].
 
==Đặc điểm==
Sông Đồng Nai chảy đến một khúc quanh thì tự chia ra làm hai nhánh ôm trọn một dải đất sa bồi. Dải đất đó chính là Cù lao Phố, nằm ở phía Đông-Nam của thành phố [[Biên Hòa]], tên hành chính hiện nay là xã [[Hiệp Hòa]] với tổng diện tích đất đai là 694,6495 [[hecta|ha]].
 
Cù lao Phố còn được gọi là ''Đông Phố, Giản Phố,,'' <ref>Theo GS. Nghiêm Toản, thì: Đông Phố, thực ra là "Giản Phố", vì lẽ chữ "Giản" và chữ "Đông" viết theo [[chữ Hán]] nét gần giống nhau, chỉ khác hai chấm thay vì một nét. Truy thêm, "Giản Phố" do "Giản Phố Trại" mà ra, và "Giản Phố Trại" tức là "Cambodia" do người Tàu âm ra tiếng của họ và vẫn đọc "Kan-pou-tchai", tức "Cambodge" ([[Campuchia]]) ngày nay. Như vậy, nên gọi "Giản Phố" hơn là "Đông Phố", nhưng cái gì cũng không mạnh hơn thông tục. Theo</ref>, ''Cù Châu,'' <ref>[[Trịnh Hoài Đức]] giải thích: "Cù Châu là nói địa thế khuất khúc hình như con rồng có sừng (Hoa Cù) uốn giỡn với nước nên nhân đó gọi tên" ''([[Gia Định thành thông chí]])''.</ref>, ''Nông Nại Đại Phố.'' <ref>Nông Nại đại phố tức là "[[Chợ Lớn]] của xứ Đồng Nai". Đồng Nai âm theo tiếng [[Quảng Đông]] là Nông Nại, do họ không phát âm được chữ "Đ" trong địa danh [[Đồng Nai]].</ref>. Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy có thể đi đến mọi miền.
Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy có thể đi đến mọi miền.
 
==Xây dựng và phồn thịnh==
Hàng 12 ⟶ 11:
Người có công lớn trong công cuộc phát triển vùng Cù lao Phố là [[Trần Thượng Xuyên]] (陳上川) tự Trần Thắng Tài (? – [[1720]]), nguyên là tổng binh ba châu [[Cao Châu|Cao]]-[[Lôi Châu|Lôi]]-[[Hợp Phố|Liêm]] dưới [[nhà Minh|triều Minh]], bởi không chịu làm tôi [[nhà Thanh]] nên đã dẫn thuộc hạ sang thần phục chúa [[Nguyễn Phúc Tần]] vào năm [[1679]] và được cho vào đây cư trú.
 
Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân <ref>Bàn Lân hay Bàng Lân, sau đổi thành Tân Lân, có nghĩa là "Xóm Mới". Theo nhà văn [[Sơn Nam (định hướng)|Sơn Nam]] thì Bàn Lân là tiếng [[bằng lăng]] (một loại cây bản địa, trổ bông tím đẹp) nói trại ra (''Cù lao Phố - Cảng biển đầu tiên ở [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]]'' trong sách "Nam Bộ xưa và nay", Nhà xuất bản. TP. HCM, 2005, tr. 121).</ref> (ngày nay thuộc [[Biên Hòa]]) lập nghiệp. Khi đó, vùng đất này còn là rừng rú. Vốn là người ở vùng [[Hướng Đông Nam|Đông Nam]] [[Trung Quốc]], thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra Cù lao Phố, một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của [[sông Đồng Nai]]), trải dài trên 7 [[dặm Anh|dặm]], bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, và phía Nam có thể ra biển [[Cần Giờ]] hay sang tận [[Campuchia|Cao Miên]].
 
Cho nên một phần lớn nhóm [[người Hoa]], đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố. Và cùng với nhóm lưu dân [[người Việt]] đến trước, Trần Thượng Xuyên và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng [[Gia Định]], tức [[Miền Nam (Việt Nam)|Nam bộ]] ngày nay.
Hàng 31 ⟶ 30:
Tuy nhiên, sự thịnh vượng của vùng Cù lao Phố chỉ kéo dài được 97 năm ([[1679]]-[[1776]]), bởi đã xảy ra hai sự kiện lớn:
*Năm [[1747]], một nhóm khách thương người [[Phúc Kiến]] qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố rất giàu có nên dậy lòng tham muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu, đánh úp dinh Trấn Biên (tiền thân của Biên Hòa sau này), giết chết Nguyễn Cư Cẩn (tước Cẩn Thành hầu) là người cai quản dinh. Tin cấp báo về [[Thuận Hóa]], chúa Vũ vương ([[Nguyễn Phúc Khoát]]) liền sai cai cơ Tống Phước Đại (tước Đại Thắng hầu) đang đóng ở Mô Xoài đem binh vào cứu viện. Tống Phước Đại phá tan đạo quân của Lý Văn Quang, bắt được chúa đảng cùng đồng bọn 57 người. Tuy dẹp được cuộc bạo loạn, nhưng Cù lao Phố cũng đã chịu nhiều thiệt hại.
*Năm [[1776]] và [[1777]], quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] đã đến đàn áp những [[người Hoa]] ở cù lao Phố vì họ đã ủng hộ [[Gia Long|Nguyễn Phúc Ánh]].<ref>Xem chi tiết trong bài của Huỳnh Ngọc Trảng [http://www.vanhoahoc.com/site/index.php?option=com_content&task=view&id=1051&Itemid=118] và báo Đồng Nai</ref>. Sơn Nam viết:
:''Năm 1776 và 1777, quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] tràn vào [[Gia Định]], đánh Cù lao Phố "chiếm dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Quy Nhơn''.<ref>Đi và Viết. Tạp chí Xưa & Nay - Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr. 99.</ref>. Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia [[người Hoa]] rủ nhau xuống vùng [[Chợ Lớn]] (nay là Quận 5 và Quận 6, thuộc [[Thành phố Hồ Chí Minh]]), sáp nhập với xã Minh Hương <ref>Trước sự kiện này, có thể vì lý do kinh tế, một bộ phận của nhóm Trần Thượng Xuyên, từ xã Thanh Hà ở Cù lao Phố (thuộc Trấn Biên), tự tách ra để đến ở trung tâm quận 5, thuộc [[Thành phố Hồ Chí Minh]] hiện nay, và thành lập xã Minh Hương vào năm [[1698]], đúng như [[Trịnh Hoài Đức]] đã ghi: "Từ đó, con cháu người Tàu...ở Phiên Trấn lập thành xã Minh Hương rồi ghép vào sổ hộ tịch". Năm [[1885]], [[Trương Vĩnh Ký]] chỉ rõ: "Địa phận nằm giữa đường Marins (xưa là [[Đồng Khánh]], nay là [[Trần Hưng Đạo]]) với mé rạch Chợ Lớn, là nơi trú ngụ của người Minh Hương. Còn đền Trần Tướng quân, thờ Trần Thượng Xuyên, là lãnh tụ người Hoa sang tị nạn ở Việt Nam từ [[1679]] rồi nhận chức quan với chúa Nguyễn và có công lập chợ phố ở [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]". Như vậy có thể nói, năm [[1778]] không phải là niên đại khai sinh của Chợ Sài Gòn tức Chợ Lớn ngày nay, mà rất có thể là thời điểm người Việt gốc Hoa ở xã Thanh Hà tự sáp nhập với xã Minh Hương mà thôi...(sách ''Địa chí văn hóa TP. HCM'' phần [[Lịch sử]], Nhà xuất bản. TP. HCM, 1987, tr. 164-165).</ref> sinh sống và lập những cơ sở thương mãi khác cho đến nay...
Kể từ đó, vùng Cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của [[Đàng Trong]] mà thay vào đó là [[Chợ Lớn]] và [[Mỹ Tho]].
 
==Thông tin khác==
Thời tiết nơi đây có thể nói là đẹp nhất tại Biên Hòa, nhiệt độ không khí luôn thấp hơn nhiệt độ chung của khu vực từ 1 đến 2 độ, độ ẩm trung bình 80%, kinh tế trong vùng chủ yếu là nông nghiệp, với các loại cây ăn trái đặc trưng của [[Biên Hòa]] như [[bưởi]]...
 
Ở đây, có đình Bình Kính, là nơi quàn tạm quan tài của [[Nguyễn Hữu Cảnh]] trước khi chuyển về [[chôn cất|chôn]] ở quê hương [[Quảng Bình]]; có đình thờ Trần Thượng Xuyên (tức Tân Lân thành phố Miếu). Ngoài ra, ở cù lao Phố còn có hai ngôi chùa nổi tiếng, đó là [[Chùa Đại Giác]]<ref>Chùa Đại Giác được xây dựng vào hậu bán [[thế kỷ 17]], nhưng chưa biết do ai và vào năm nào. Khoảng thời gian [[chúa Nguyễn]] ([[Gia Long|Nguyễn Phúc Ánh]]) trung hưng ở [[Gia Định]] ([1778]-[[1801]]), chúa cùng hoàng gia có thời gian tạm ngụ ở chùa Đại Giác. Con gái thứ ba của chúa là Ngọc Anh sau đó xin tu tại đây. Năm [[1802]], Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua ở [[Huế]]. Nhớ ơn xưa, nhà vua ra lệnh trùng tu và còn cho mang [[voi]] đến nện nền chùa, vì vậy chùa được người dân gọi là ''chùa Tượng''. Ngoài ra, vua còn gửi cúng một tượng [[Phật]] [[A-di-đà]] bằng gỗ thật to, cao 2,25[[m]] nên chùa còn có một tên nữa là ''chùa Phật Lớn''.(theo Nguyễn Hiền Đức, ''Lịch sử Phật giáo [[Đàng Trong]]'', Nhà xuất bản. TP.HCM, 1995, tr.257-258).</ref> xưa nhất xứ Đồng Nai và chùa Ông (thờ [[Quan Vũ|Quan Công]]).