Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cù lao Phố”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Thông tin khác: replaced: chôn ở → chôn ở using AWB |
|||
Dòng 1:
[[Tập tin:Một nhánh sông Đồng Nai chảy qua cù lao Phố.jpg|nhỏ|phải|200px|Một nhánh sông Đồng Nai chảy qua Cù lao Phố. Cầu trong ảnh là [[cầu Ghềnh]].<ref>Thông tin thêm: Tối ngày 6 tháng 2 năm 2011 tại cầu Ghềnh đã xảy ra [[tai nạn giao thông]] thảm khốc giữa [[
'''Cù lao Phố''' là một cù lao nằm trên [[sông Đồng Nai]], nay là xã [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|Hiệp Hòa]] thuộc thành phố [[Biên Hòa]], tỉnh [[Đồng Nai]], [[Việt Nam]].
==Đặc điểm==
Sông Đồng Nai chảy đến một khúc quanh thì tự chia ra làm hai nhánh ôm trọn một dải đất sa bồi. Dải đất đó chính là Cù lao Phố, nằm ở phía Đông-Nam của thành phố [[Biên Hòa]], tên hành chính hiện nay là xã [[Hiệp Hòa]] với tổng diện tích đất đai là 694,6495 [[hecta|ha]].
Cù lao Phố còn được gọi là ''Đông Phố, Giản Phố,,''
==Xây dựng và phồn thịnh==
Hàng 12 ⟶ 11:
Người có công lớn trong công cuộc phát triển vùng Cù lao Phố là [[Trần Thượng Xuyên]] (陳上川) tự Trần Thắng Tài (? – [[1720]]), nguyên là tổng binh ba châu [[Cao Châu|Cao]]-[[Lôi Châu|Lôi]]-[[Hợp Phố|Liêm]] dưới [[nhà Minh|triều Minh]], bởi không chịu làm tôi [[nhà Thanh]] nên đã dẫn thuộc hạ sang thần phục chúa [[Nguyễn Phúc Tần]] vào năm [[1679]] và được cho vào đây cư trú.
Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân
Cho nên một phần lớn nhóm [[người Hoa]], đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố. Và cùng với nhóm lưu dân [[người Việt]] đến trước, Trần Thượng Xuyên và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng [[Gia Định]], tức [[Miền Nam (Việt Nam)|Nam bộ]] ngày nay.
Hàng 31 ⟶ 30:
Tuy nhiên, sự thịnh vượng của vùng Cù lao Phố chỉ kéo dài được 97 năm ([[1679]]-[[1776]]), bởi đã xảy ra hai sự kiện lớn:
*Năm [[1747]], một nhóm khách thương người [[Phúc Kiến]] qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố rất giàu có nên dậy lòng tham muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu, đánh úp dinh Trấn Biên (tiền thân của Biên Hòa sau này), giết chết Nguyễn Cư Cẩn (tước Cẩn Thành hầu) là người cai quản dinh. Tin cấp báo về [[Thuận Hóa]], chúa Vũ vương ([[Nguyễn Phúc Khoát]]) liền sai cai cơ Tống Phước Đại (tước Đại Thắng hầu) đang đóng ở Mô Xoài đem binh vào cứu viện. Tống Phước Đại phá tan đạo quân của Lý Văn Quang, bắt được chúa đảng cùng đồng bọn 57 người. Tuy dẹp được cuộc bạo loạn, nhưng Cù lao Phố cũng đã chịu nhiều thiệt hại.
*Năm [[1776]] và [[1777]], quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] đã đến đàn áp những [[người Hoa]] ở cù lao Phố vì họ đã ủng hộ [[Gia Long|Nguyễn Phúc Ánh]].<ref>Xem chi tiết trong bài của Huỳnh Ngọc Trảng [http://www.vanhoahoc.com/site/index.php?option=com_content&task=view&id=1051&Itemid=118] và báo Đồng Nai</ref>
:
Kể từ đó, vùng Cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của [[Đàng Trong]] mà thay vào đó là [[Chợ Lớn]] và [[Mỹ Tho]].
==Thông tin khác==
Thời tiết nơi đây có thể nói là đẹp nhất tại Biên Hòa, nhiệt độ không khí luôn thấp hơn nhiệt độ chung của khu vực từ 1 đến 2 độ, độ ẩm trung bình 80%, kinh tế trong vùng chủ yếu là nông nghiệp, với các loại cây ăn trái đặc trưng của [[Biên Hòa]] như [[bưởi]]
Ở đây, có đình Bình Kính, là nơi quàn tạm quan tài của [[Nguyễn Hữu Cảnh]] trước khi chuyển về [[chôn cất|chôn]] ở quê hương [[Quảng Bình]]; có đình thờ Trần Thượng Xuyên (tức Tân Lân thành phố Miếu). Ngoài ra, ở cù lao Phố còn có hai ngôi chùa nổi tiếng, đó là [[Chùa Đại Giác]]<ref>Chùa Đại Giác được xây dựng vào hậu bán [[thế kỷ 17]], nhưng chưa biết do ai và vào năm nào. Khoảng thời gian [[chúa Nguyễn]] ([[Gia Long|Nguyễn Phúc Ánh]]) trung hưng ở [[Gia Định]] ([1778]-[[1801]]), chúa cùng hoàng gia có thời gian tạm ngụ ở chùa Đại Giác. Con gái thứ ba của chúa là Ngọc Anh sau đó xin tu tại đây. Năm [[1802]], Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua ở [[Huế]]. Nhớ ơn xưa, nhà vua ra lệnh trùng tu và còn cho mang [[voi]] đến nện nền chùa, vì vậy chùa được người dân gọi là ''chùa Tượng''. Ngoài ra, vua còn gửi cúng một tượng [[Phật]] [[A-di-đà]] bằng gỗ thật to, cao 2,25[[m]] nên chùa còn có một tên nữa là ''chùa Phật Lớn''.(theo Nguyễn Hiền Đức, ''Lịch sử Phật giáo [[Đàng Trong]]'', Nhà xuất bản. TP.HCM, 1995, tr.257-258).</ref> xưa nhất xứ Đồng Nai và chùa Ông (thờ [[Quan Vũ|Quan Công]]).
|