Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyệt Đình”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 26:
==Tiểu sử==
Năm [[1850]], bà kết hôn với [[Phạm Đăng Thuật]] (范登述), con trai của đại thần Đức quốc công [[Phạm Đăng Hưng]] và là em trai của [[Từ Dụ|Nghi Thiên Chương hoàng hậu]]. Hai vợ chồng sống hạnh phúc, xướng họa tương đắc. Bà tuy lấy chồng người họ quý thích, mà khiêm tốn giữ gìn, không ưa xa xỉ, duy chỉ thích sách vở mà thôi<ref>Sử quán triều Nguyễn, ''Đại Nam liệt truyện tập 3'', bản dịch của Viện Sử học, Nxn [[Thuận Hóa]], [[Huế]], 1993, tr. 181.</ref>. Hai vợ chồng chỉ sinh được một gái tên Uyển La, nhưng mất sớm.
Dòng 34:
Năm Tự Đức thứ 20 ([[1876]]), bà được phong '''Quy Đức công chúa''' (歸德公主). Năm [[1875]], bà tâu xin được giao cho xã sở tại (Dương Xuân), chọn người coi giữ việc thờ cúng nơi từ đường.
Ngày [[22 tháng 3]] năm Nhâm Thìn (tức [[18 tháng 4]] năm [[1892]]) triều [[Thành Thái]],
==Tác phẩm==
|