Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kitô giáo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi lại sửa đổi 40606076 của Greenknight dv (thảo luận)
Thẻ: Lùi sửa
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 1:
{{1000 bài cơ bản}}
{{sao chọn lọc}}{{Kitô giáo}}
'''Kitô giáo''' (thuật ngữ phiên âm) hay '''Cơ Đốc giáo''' (thuật ngữ [[phiên âm Hán-Việt|Hán-Việt]]) là một trong [[các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham]],<ref>Fowler, Jeaneane D. ''World Religions:An Introduction for Students''. Sussex Academic Press (1997), p. 131. ISBN 1-898723-48-6.</ref><ref>McManners, John. ''Oxford Illustrated History of Christianity''. Oxford University Press (1990), p. 301–303.</ref> [[Abraham]] là tổ phụ của người Do Thái và người Ả Rập (hai tôn giáo còn lại là [[Do Thái giáo]] và [[Hồi giáo]]), đặt nền tảng trên giáo huấn, [[Sự chết của Chúa Giêsu|sự chết trên thập tự giá]] và [[Sự phục sinh của Chúa Giêsu|sự sống lại]] của [[Giê-su|Chúa Giêsu Kitô]] như được ký thuật trong [[Tân Ước|Kinh thánh Tân Ước]].<ref>[[BBC]], [http://www.bbc.co.uk/religion/religions/christianity/ ''BBC - Religion & Ethics - Christianity'']</ref> [[Kitô hữu]] (Cơ Đốc nhân) tin rằng Giêsu là Con của Thiên Chúa và là [[Messiah|Đấng Messiah]] của [[người Do Thái]] như đã được tiên báo trong [[Cựu Ước|Kinh thánh Cựu Ước]]. Thuộc [[thuyết độc thần|tôn giáo độc thần]],<ref name="Monotheism">The [[Catholic Encyclopedia]], Volume IX, [http://www.newadvent.org/cathen/10499a.htm ''Monotheism'']; [[William F. Albright]], ''From the Stone Age to Christianity''; [[H. Richard Niebuhr]]; About.com, [http://ancienthistory.about.com/od/monotheisticreligions/ ''Monotheistic Religion resources'']; Jonathan Kirsch, ''God Against the Gods''; Linda Woodhead, ''An Introduction to Christianity''; [[Columbia Encyclopedia|The Columbia Electronic Encyclopedia]] [http://www.infoplease.com/ce6/society/A0833762.html ''Monotheism'']; The New Dictionary of [[Cultural literacy|Cultural Literacy]], [<!--http://www.bartleby.com/59/5/monotheism.html-->http://web.archive.org/web/20071212011435/http://www.bartleby.com/59/5/monotheism.html ''monotheism'']; New Dictionary of Theology, [http://www.ntwrightpage.com/Wright_NDCT_Paul.htm ''Paul''], p. 496-99; David Vincent Meconi, "Pagan Monotheism in Late Antiquity" in ''Journal of Early Christian Studies'', p. 111–12</ref> hầu hết [[Kitô hữu]] tin rằng chỉ có một [[Thiên Chúa]] duy nhất hiện hữu trong ba thân vị ([[tiếng Hy Lạp]]: ''hypostasis'') gọi là [[Ba Ngôi]].<ref>Fowler, Jeaneane D. ''World Religions:An Introduction for Students''. p. 58. Sussex Academic Press (1997). ISBN 1-898723-48-6.</ref> Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa, cũng như các xác tín và [[hệ phái]] khác nhau. Trải qua hai [[thiên niên kỷ]], Kitô giáo tự hình thành nên ba nhánh chính là [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo Rôma]], [[Chính thống giáo Đông phương]] và [[TinKháng LànhCách]] (cònthường gọi là KhángTin CáchLành). Tính chung, đây là tôn giáo lớn nhất thế giới với 2,4 tỉ tín hữu, chiếm khoảng 33% dân số thế giới (năm 2015).
 
Từ "[[Kitô]]" xuất phát từ chữ ''Khristos'' trong [[tiếng Hy Lạp]], nghĩa là "Đấng được xức dầu", dịch từ chữ ''[[Messiah]]'' trong [[tiếng Hebrew]]. Từ "Kitô hữu" có nghĩa là "người có Chúa Kitô hiện hữu (ở trong)", hay "người thuộc về Chúa Kitô".
 
Trong [[tiếng Việt]], bên cạnh từ "Kitô" (như Kitô giáo) phiên âm qua tiếng Bồ Đào Nha, và thường được sử dụng bởi tín hữu Công giáo, còn có từ "Cơ Đốc" (như Cơ Đốc giáo) xuất phát từ [[chữ Hán|chữ Nho]] (基督) và thường được nhữngtín người theo đạohữu [[Tin Lành]] sử dụng. Trong khi người Công giáo dùng chữ "Kitô" để chỉ Giêsu, người Tin Lành thường dùng chữ "Christ". Ngoài ra, một số người cũng dùng cách gọi '''Thiên Chúa giáo''' để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung.
 
== Lịch sử ==
Dòng 13:
 
[[Tập tin:Christ Carrying the Cross 1580.jpg|nhỏ|trái|150px|''Chúa Ki-tô vác thập tự giá'', [[El Greco]], 1580]]
Vậy tâm điểm việc [[cứu rỗi]] của Kitô giáo là Chúa Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tín rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần, là [[Messiah|Đấng Mê-si-a]], và là [[Kitô|Đức Ki-tô]]. Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew מָשִׁיחַ (''māšiáħ''), nghĩa là "đấng được xức dầu", chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp là Χριστός (''Khristos'').<ref>McGrath, Alister E. ''Christianity:An Introduction''. Pp 4-6. Blackwell Publishing (2006). ISBN 1-4051-0899-1.</ref>
 
Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah, Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu Ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hòa với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời.
Dòng 19:
Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Chúa Giêsu "là Thiên Chúa và là con người" trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản tính. Vì Chúa Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị cám dỗ như con người bình thường, nhưng không hề phạm tội. Vì là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết,<ref>[http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%202:24;&version=19; Công vụ các Sứ đồ 2:24], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Romans%2010:9;&version=19; Rôma 10:9], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=ICorinthians%2015:15-19;&version=19; 1Cor 15:15-19], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%202:31-32;&version=19; Công vụ các Sứ đồ 2:31-32], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%203:15;&version=19; 3:15], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%204:10;&version=19; 4:10], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%205:30;&version=19; 5:30], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%2010:40-41;&version=19; 10:40,41], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%2013:30-31;&version=19; 13:30-31], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%2013:34-35;&version=19; 13:34,35], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%2013:37;&version=19; 13:37], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Acts%2017:30-31;&version=19; 17:30,31], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=ICor%206:14;&version=19; 1Cor 6:14], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=IICor%204:14-15;&version=19; 2Cor 4:14,15], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Gal%201:1;&version=19; Gal 1:1], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Eph%201:19-23;&version=19; Eph 1:19-23], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Col%202:12;&version=19;], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Heb%2013:20-21;&version=19; Hêb 13:20, 21], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=1Peter%201:3;&version=19; 1Peter 1:3], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=1Peter%201:21;&version=19; 1:21]</ref> đặt Chúa Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha và Ngài sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa.
 
Kitô giáo được biết đến từ [[thế kỷ 1|thế kỷ thứ nhất]] khi các môn đồ của Chúa Giêsu được gọi là [[Kitô hữu]] tại thành [[Antiochia]] xứ [[Syria (khu vực)|Syria]](nay thuộc [[Thổ Nhĩ Kỳ]] ngày nay), nơi họ đến để lánh nạn và định cư sau những cuộc bức hại đầu tiên tại xứ [[Judea]]. Nền thần học của Kitô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi [[sứ đồ Phaolô]] và các [[Mười hai sứ đồ|sứ đồ]] khác.
 
Theo [[Tân Ước]], Chúa Giêsu tự xưng mình là Đấng [[Messiah]] mà dân Do Thái vẫn hằng mong đợi, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo Tôn giáo và Dân sự cũng như dân chúng chối từ và bị xem như là chống lại Đền thờ và luật lệ thời đó. Ngài cũng bị buộc tội phạm thượng do dám gọi Thiên Chúa là Cha và bị kết án tử hình bởi chính quyền La Mã vào năm [[30]]. Tuy nhiên Giêsu được [[Pontius Pilatus]], tổng trấn người La Mã, gọi là "Vua của dân Do Thái".
Dòng 25:
Theo các sách Phúc âm, người La Mã buộc tội Giêsu vì muốn xoa dịu sự bất bình của giới cầm quyền Do Thái, nhưng một số học giả cho rằng đó là cách mà [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]] trừng phạt những người chống đối họ. Kitô hữu tin rằng [[Cựu Ước]] đã tiên báo cái chết và sự sỉ nhục mà Giêsu phải chịu như đã chép trong Tân Ước. Sách Isaiah ngụ ý rằng Giêsu bị vả, nhổ, đấm vào mặt (Isaiah 50.6, 52.14-15; Matthew. 26.67-68; Mark 14.65), bị đánh bằng roi (Isaiah 53.5; John 19.1; Matthew 27.26) cũng như bị sỉ nhục.
 
Kitô hữu xem sự phục sinh của Giêsu là nền tảng của đức tin và là biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.<ref>[[Hank Hanegraaff|Hanegraaff, Hank]]. ''Resurrection: The Capstone in the Arch of Christianity''. Thomas Nelson (2000) ISBN 0-8499-1643-7.</ref> Theo Tân Ước, Giêsu là tâm điểm của Kitô giáo, bị đóng đinh trên thập tự giá, chết và [[chôn cất Giêsu|chônmai táng]] trong mộ, đến ngày thứ ba thì sống lại.<ref>[http://www.biblegateway.com/passage/?search=John%2019:%2030-31;&version=19; Phúc âm John 19: 30-31], [http://www.biblegateway.com/passage/?search=Mark%2016;&version=19; Phúc âm Mark 16],</ref> Theo ký thuật của Tân Ước, sau khi sống lại, Giêsu, trong những lần khác nhau tại những địa điểm khác nhau, đã đến gặp mười một sứ đồ và các môn đồ, trong đó có lần xuất hiện trước sự chứng kiến của "hơn năm trăm người",<ref>[http://www.biblegateway.com/passage/?search=ICorinthians%2015:5-7;&version=19; 1Cor 15:5-7]</ref> sau đó thì về trời.
 
Các [[mười hai sứ đồ|sứ đồ]] của Giêsu là nhân chứng về cuộc đời, lời giảng và sự sống lại của Giêsu. Ngoài ra còn có nhiều môn đồ (đến 70 người) trong đó có Giacôbê, [[Thánh sử Máccô|Máccô]], [[Thánh sử Luca|Luca]], [[Maria Madalena|Maria Mađalêna]]..., những người này theo Giêsu trong các cuộc hành trình và họ chứng kiến khi Giêsu giảng dạy và làm nhiều phép lạ. Sau khi Giêsu bị đóng đinh, các sứ đồ và các môn đệ khác công bố rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và họ khởi sự rao giảng thông điệp mới. Các sứ đồ và môn đệ này đã viết các [[sách Phúc Âm|sách Phúc âm]] và các Thư tín.
Dòng 34:
=== Hội thánh sơ khai ===
{{chính|Kitô giáo sơ khai}}
Trong suốt ba thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo lan truyền nhanh chóng trong suốtkhu bavực thế[[Địa kỷTrung Hải]] và được truyền tương đốira ancả bìnhbên củangoài [[Đế quốc La Mã]]:
* thông qua [[Syria (khu vực)|Syria]] tới vùng[[Armenia]], [[Gruzia]], [[Lưỡng Hà]], [[Iran|Ba Tư]] và [[Ấn Độ]]
* thông qua [[Ai Cập]] đến [[Libya]], [[Sudan]] và [[Ethiopia]]
* thông qua [[Tiểu Á]], [[Hy Lạp]] và [[Đế quốc La Mã|La Mã]] đến các vùng khác của [[Châu Âu|Âu châu]] cũng như tới tây bắc [[Châu Phi|Phi châu]]
* thông qua [[Syria (khu vực)|Syria]] tới vùng [[Lưỡng Hà]], [[Iran|Ba Tư]] và [[Ấn Độ]]
* thông qua [[Hy Lạp]] và [[Đế quốc La Mã|La Mã]] đến các vùng khác của [[Châu Âu|Âu châu]]
 
[[Tập tin:Ichthus.svg|nhỏ|trái|210px|Vào thuở Kitô giáo sơ khởi, một tín hữu có thể vẽ một cung trên đất khi gặp một người khác, nếu chia sẻ cùng niềm tin, người này sẽ vẽ tiếp một cung nữa để hoàn chỉnh hình con cá ([[ICHTHUSIchthys]] - ΙΧΘΥΣ), một biểu trưng của Kitô giáo.]]
Vào thời kỳ ban đầu, Hội thánh bao gồm hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp. Trong khi [[Kitô hữu gốc Do Thái|cộng đồng Do Thái]], phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì một số tập tục và nghi thức của [[Do Thái giáo]] (''Judaism'') như phép cắt bì và một số kiêng cữ khác thì cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói [[tiếng Hy Lạp]], tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các phương pháp thích hợp hơn với thế giới [[Hellenistic]] bên ngoài.
 
Dòng 63:
Vào thiên niên kỷ thứ hai, Kitô giáo phát triển đến hầu hết thế giới phương Tây, [[Trung Đông]], các vùng [[Châu Phi]] và bắt đầu tiếp cận vùng [[Viễn Đông]]. Dù vẫn nảy sinh một số bất đồng về thần học và đều được giải quyết tại các công đồng, Kitô giáo đã duy trì được sự đồng thuận về các giáo lý nền tảng trong suốt thời kỳ này. Tuy nhiên, trong thiên niên kỷ sau, các bất đồng về thần học và sống đạo ngày càng trở nên trầm trọng. Cuộc [[Đại Ly giáo]] năm [[1054]] chia cắt Giáo hội thành hai nửa Tây phương và Đông phương. Trong khi giáo hội Tây phương với tên gọi [[Công giáo Rôma]] dần dần củng cố quyền lực tập trung vào Rôma thì giáo hội Đông phương với danh xưng "Chính thống" cam kết bảo tồn các truyền thống và đề kháng với mọi thay đổi. Cho đến nay [[Chính thống giáo Đông phương]] vẫn duy trì lập trường không đặt giáo hội dưới quyền cai trị của một giám mục duy nhất. Giáo hội Đông phương công nhận [[Thượng phụ Đại kết thành Constantinopolis|Thượng phụ thành Constantinopolis]] là "người đứng đầu nhưng bình đẳng" với các giám mục khác đang cai quản các giáo hội tự trị trong gia đình Chính thống giáo.<ref>[http://www.orthodoxinfo.com/general/greatschism.aspx The Great Schism: The Estrangement of Eastern and Western Christendom]</ref>
 
Tại [[Châu Âu|Âu châu]], chịu ảnh hưởng từ cuộc [[Cải cách Tin Lành|Cuộc Cải cách Kháng nghị]] (''Protestant Reformation'') vào [[thế kỷ 16]] nhiều giáo hội đã từ chối thần phục [[Tòa Thánh]] vì họ cho rằng có sự lạm dụng trong cơ cấu quyền lực được tập trung vào ngai [[Giáo hoàng]] cũng như bên trong cấu trúc quyền lực này đã nảy sinh nhiều sai lạc về thần học và sống đạo.<ref name="Simon">{{Chú thích sách |first=Edith |last=Simon |title=Great Ages of Man: The Reformation |pages=p. 39, 55-61. |publisher=Time-Life Books |year=1966 |isbn=0662278208}}</ref> Các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận đã được tóm tắt trong năm mệnh đề ''sola'' nổi tiếng (xem [[Năm Tín lý Duy nhất]]):
* ''Sola scriptura'': Duy Thánh Kinh - thẩm quyền của giáo hội chỉ dựa trên Kinh Thánh được giải thích cách đúng đắn và chuẩn xác chứ không được tách rời khỏi [[Kinh Thánh]]<ref>Keith Mathison ''The Shape of Sola Scriptura'' (2001)</ref>
* ''Sola fide'': Duy [[đức tin Kitô giáo|đức tin]] – con người được [[cứu rỗi]] chỉ bởi tin Đấng Christ (Chúa Kitô) chứ không phải bởi công đức hay là nhờ giáo hội và các thánh lễ
Dòng 72:
Từ cuộc cải cách khởi phát một cuộc tranh chấp dữ dội nhằm thu phục người dân Âu châu. Các cuộc tranh luận giữa người Công giáo và người Kháng Cách dẫn đến những cơn bách hại cũng như các cuộc chiến, kể cả các cuộc nội chiến.
 
Đức tin Công giáo và Kháng Cách đặt chân đến [[Bắc Mỹ]] (và sau đó là [[Châuchâu Úc]]) bởi các di dân đến từ [[Châuchâu Âu]].
 
Không theo mô hình trung ương tập quyền như người Công giáo, cũng không tổ chức bộ máy giáo hội trên quy mô quốc gia, các tín hữu Kháng Cách tập trung trong hàng trăm, và sau này hàng ngàn giáo phái (''denomination'') độc lập với nhau. Đức tin Công giáo và Kháng Cách cũng đến [[Nam Mỹ]] và [[Châu Phi]] cùng lúc với người Âu châu đi chiếm thuộc địa, đặc biệt là từ [[thế kỷ 16]] đến [[thế kỷ 19]]. Vào [[thế kỷ 18]] [[Chính thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] du nhập vào vùng [[Alaska]] thuộc Bắc Mỹ qua các di dân đến từ [[Nga]], về sau, vào cuối thế kỷ 19 và đầu [[thế kỷ 20]], số lượng di dân người Nga còn đông hơn nhiều.
Dòng 84:
Kitô giáo là [[tôn giáo]] có đông tín hữu nhất, với những con số ước tính từ 1,5 tỉ đến 2,1 tỉ người<ref name="Adherents.com Christians">[http://www.adherents.com/Na/Na_173.html Adherents.com – Number of Christians in the world]</ref> xưng nhận niềm tin Kitô giáo trong thập niên 1990. Theo [[Pew Research Center]], vào năm 2010, Kitô giáo có khoảng 2,2 tỉ tín hữu (chiếm 32% tổng dân số thế giới), theo sau là [[Hồi giáo]] với 1,6 tỉ (23%); [[Ấn Độ giáo]] có 1 tỉ (15%); [[Phật giáo]] có gần 500 triệu (7%); có hơn 400 triệu người (6%) theo các tín ngưỡng dân gian hay bản địa; trong khi những người [[không tôn giáo]] có khoảng 1,1 tỉ (16%).<ref>{{chú thích web|title=The Global Religious Landscape|url=http://www.pewforum.org/2012/12/18/global-religious-landscape-exec/|publisher=Pew Research Center|date = ngày 18 tháng 12 năm 2012}}</ref>
 
Kitô giáo chia ra nhiều nhánh, bao gồm hơn 1,1 tỉ người [[Công giáo]],<ref>{{chú thích web|title=Number of Catholics on the Rise|url=https://zenit.org/articles/number-of-catholics-on-the-rise/|publisher=Zenit|date = ngày 27 tháng 4 năm 2010}}</ref> khoảng 800 triệu người theo các hệ phái [[TinKháng LànhCách]] (trong đó có 85 triệu tín hữu [[Anh giáo]]), 300 triệu người [[Chính thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]], và những giáo hội "ngoại vi" ([[Nhân Chứng Giê-hô-va|Nhân chứng Jehovah]], [[Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm An thất nhật]], [[Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô|Giáo hội Mormon]]...) có hơn 40 triệu tín hữu. Các giáo phái này tự nhận mình thuộc Kitô giáo nhưng họ không được công nhận bởi cộng đồng Kitô giáo vì cớ các học thuyết không chính thống của họ.
 
Tuy Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới<ref name="Adherents - Religion Sizes">{{Chú thích web|url = http://www.adherents.com/Religions_By_Adherents.html| title = Major Religions Ranked by Size|publisher = Adherents|accessdate = ngày 31 tháng 12 năm 2007}}</ref> và đang duy trì bộnhiều máynguồn lực cho việc truyền giáo khổng lồ, lại không đạt được mức độ tăng trưởng nhưcủa các tônKitô giáo khácchỉ cũngxấp nhưxỉ khôngmức theochung kịpcủa tốcthế độgiới. giaTheo tăngdự dânđoán, sốvào nửa sau thế giới.kỷ Trong21, số khilượng dân số toànHồi cầugiáo tăngsẽ 1,25%vượt mỗiqua nămKitô thìgiáo mứcđể tăngtrở trưởngthành của Kitôtôn giáo chỉlớn khoảngnhất 1,12%thế giới.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.pewresearch.org/fact-tank/2017/04/06/why-muslims-are-the-worlds-fastest-growing-religious-group/|title=Why Muslims are the world’s fastest-growing religious group|date=2017-04-06|website=Pew Research Center}}</ref>
 
Không phải mọi người xưng nhận mình là [[Kitô hữu]] (Cơ Đốc nhân) đều chấp nhận tất cả, hoặc ngay cả hầu hết, các quan điểm thần học của giáo hội của họ. Giống như người [[Do Thái giáo]], Kitô hữu phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi [[Thời kỳ Khai sáng|Phong trào Khai sáng]] (''Enlightenment'') từ cuối [[thế kỷ 17]] tới [[thế kỷ 18]]. Có lẽ sự thay đổi quan trọng nhất đối với họ là nguyên tắc [[phân ly giữa giáo hội và nhà nước]], chấm dứt những ưu đãi tôn giáo được nhà nước bảo hộ đã hiện hữu lâu đời tại nhiều nước Âu châu. Ngày nay một người, như là một công dân tự do, có quyềnthể bất đồng với giáo hội của mình về các vấn đề khác nhau và có quyền rời bỏ giáo hội tuỳ thíchý muốn. TrongTrên thực tế, nhiều người đã bỏ giáo hội và phát triển các hệ thống triết lý tôn giáo khác như [[Thần giáo tự nhiên]] (''Deism''), [[Nhất vị thần giáo]] (''Unitarianism''), hoặc chọn lựa trở nên [[vô thần]] (''atheist''), [[bất khả tri]] (''agnostic''), hay là [[nhân bản chủ nghĩa]] (''humanist''). Một số người ở lại giáo hội đề xuất [[Kitô giáo tự do|chủ nghĩa tự do]] (''liberalism'') bên trong nền thần học Kháng Cách. Còn trong Giáo hội Công giáo, [[chủ nghĩa tân thời (Công giáo Rôma)|chủ nghĩa tân thời]] (''modernism'') xuất hiện vào cuối [[thế kỷ 19]] khuyến khích các quan điểm và hình thức trình bày mới không theo truyền thống giáo hội.
 
Tại [[Hoa Kỳ]] và [[Châu Âu]], trào lưu thần học tự do góp phần phát triền tinh thần thế tục trong toàn xã hội. Nhiều Kitô hữu ngưng thực hành các bổn phận tôn giáo, mỗi năm chỉ đến nhà thờ vài lần vào những dịp lễ hội, hoặc hoàn toàn không bước chân vào nhà thờ. Nhiều người trong số họ vẫn nhắc đến lòng sùng đạo của ông bà, nhưng họ lớn lên trong những gia đình, nơi mà các giá trị Kitô giáo không còn được xem trọng. Bên trong họ là một tình cảm pha trộn đối với [[đức tin Kitô giáo|đức tin Kitô Giáo]]. Một mặt họ tiếp tục buộc mình vào các giá trị cổ truyền vì lý do bản sắc, mặt khác ảnh hưởng của tinh thần thế tục phương Tây, áp lực từ cuộc sống hằng ngày và từ những người xung quanh bứt giật họ ra khỏi ảnh hưởng còn sót lại của Kitô giáo truyền thống. Hôn nhân giữa Kitô hữu và người không phải Kitô hữu, từng là điều cấm kỵ, nay đã trở nên phổ biến. Tại một số quốc gia có truyền thống [[Công giáo]], nhiều người trở nên theo thuyết bất khả tri.<ref>Werner Ustorf, "A missiological postscript", in Hugh McLeod, Werner Ustorf (editors), ''The Decline of Christendom in Western Europe, 1750-2000'', Cambridge University Press (2003), 219-220.</ref>
 
[[Tập tin:Christianity percentage by country (2008).png|nhỏ|phải|500px|Kitô giáo theo tỷ lệ dân số.]]
Vào đầu [[thế kỷ 20]], trào lưu tự do phát triển mạnh tại Âu châu và Bắc Mỹ, đến thập niên 1960, kiểm soát nhiều giáo phái [[Kháng Cách chính lưu|chính lưu]] (''mainline'') tại [[Hoa Kỳ]] và [[Canada]]. Dù vậy, ngày nay trào lưu này đã thoái trào. Vào đầu [[thế kỷ 21]], tuy thế giới thế tục, đặc biệt là các phương tiện truyền thông vẫn xem các nhà thần học tự do như là đại biểu và phát ngôn viên cho Kitô giáo, các nhà thờ theo khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần. Một phần là do những nỗ lực của khuynh hướng Phúc âm, phần khác là vì nhiều người trong số họ đang trở lại với các giá trị Kitô giáo truyền thống.
 
Một vấn nạn của Kitô giáo là họ đánh mất khả năng chuyển giao các giá trị Kitô giáo cho thế hệ kế tiếp. Trong khi các giáo phái chính lưu tại Hoa Kỳ, ngoại trừ [[Báp-tít|Baptist]] Nam phương (''Southern Baptist''), đang thoái trào thì các định chế tôn giáo theo [[Phong trào Tin Lành|khuynh hướng Phúc âm]] (''Evangelical'') đang phát triển mạnh, đặc biệt là vào hạ bán thế kỷ 20. Tạp chí ''[[Christian Century]]'' (Thế kỷ Kitô giáo) có khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần để bị thay thế bởi đối thủ đang lớn mạnh có khuynh hướng phúc âm là tạp chí ''[[Christianity Today]]'' (Kitô giáo Ngày nay). Tại phương Đông [[Thời kỳ Khai sáng|Phong trào Khai sáng]] không tạo lập được nhiều ảnh hưởng. Đối diện với nhiều áp lực từ các xã hội thế tục, giáo hội phải bám trụ vào các xác tín truyền thống để tồn tại, dù vậy, số lượng tín hữu cứ hao mòn dần.
Dòng 104:
Hạ bán [[thế kỷ 20]] chứng kiến chủ nghĩa tân thời phát triển thành [[chủ nghĩa tiêu dùng]] (''consumerism''). Xảy ra cùng lúc nhưng theo hướng ngược lại là sự phát triển của hiện tượng [[Đại giáo đoàn|Đại Giáo đoàn]] (''Megachurch'') - tập chú vào tính linh động của các phương pháp trình bày thông điệp Kitô cho người đương thời. Giáo trình Alpha (''Alpha Course'') là một điển hình cho trào lưu mới này của Kitô giáo.
 
Một phong trào có ảnh hưởng lớn và đang phát triển mạnh, đặc biệt ở phương Tây và Hoa Kỳ là [[phong trào Tin lànhLành]] hay chủ nghĩa Phúc âm. Họ có mặt và hoạt động tích cực trong hầu hết các giáo phái Kháng Cách, trong một số trường hợp họ là thành phần đa số. Những người Phúc âm thường chủ trương "xuyên giáo phái", họ thích tạo lập các mối quan hệ chính thức hoặc không chính thức với những người Phúc âm trong các giáo phái khác hơn là quan hệ với những người không Phúc âm trong vòng giáo phái của họ. Tín hữu Phúc âm nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có kinh nghiệm quy đạo của mỗi cá nhân và tin Chúa Giêsu là Cứu Chúa và Thiên Chúa. Họ tin vào sự tái lâm của Chúa Kitô, tính chân xác của Thánh Kinh và tin vào phép mầu.
 
== Giáo lý ==
Dòng 113:
Trọng tâm của Kitô giáo đặt vào yếu tố Thiên Chúa sai Con Một của mình đến thế gian để cứu nhân loại, tạo ra sự khác biệt lớn lao giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì các tôn giáo ấy thường nhấn mạnh đến vai trò của con người tự nỗ lực cho sự cứu độ của bản thân mình.
 
Nền thần học được xác lập vững chắc từ ban đầu và được chấp nhận rộng rãi giữa ba nhánh chính của Kitô giáo - [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo]], [[Chính thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] và [[Tin Lành|Kháng Cách]] - khẳng định những xác tín căn bản của Kitô giáo bao gồm:
* Thiên Chúa là [[Ba Ngôi]] hằng có đời đời, là thực thể vĩnh cửu duy nhất, hiện hữu trong ba thânngôi vị: [[Chúa Cha]], [[Giê-su|Chúa Con]] (Ngôi Lời trở thành xác thịt là Chúa Giêsu Kitô) và [[Chúa Thánh Linh]].<ref name=autogenerated1 />
* Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, cả hai bản tính đều trọn vẹn trong Ngài.
* [[Maria]] (''Ma-ri-a'' hay ''Ma-ri''), mẹ của Chúa Giêsu, người cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Đấng vô hạn và vĩnh cửu đã được hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Ngài nhận lãnh từ Maria trí tuệ và ý chí con người và mọi điều khác như một đứa trẻ bình thường nhận lãnh từ mẹ mình.
Dòng 125:
 
== Văn hóa ==
{{main|Văn hóa Kitô giáo|Vai trò của Kitô giáo trong nền văn minh}}
{{multiple image
|align=right
Dòng 138:
[[Văn hóa phương Tây]] trải qua lịch sử đã hầu như tương đương với văn hóa Kitô giáo. Các ý niệm về "[[châu Âu]]" và "[[Thế giới phương Tây]]" được liên hệ mật thiết với "Kitô giáo và [[Thế giới Kitô giáo]]", nhiều người thậm chí còn coi Kitô giáo là mối liên kết tạo nên một căn tính Âu châu thống nhất.<ref>{{chú thích sách|last=Dawson|first=Christopher|title=Crisis in Western Education|year=1961|isbn=978-0-8132-1683-6|edition=reprint|author2=Glenn Olsen|page=108}}</ref> Mặc dù văn hóa phương Tây trong thời kỳ đầu bao gồm một số tôn giáo đa thần dưới các đế quốc [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]] và [[Đế quốc La Mã|La Mã]] nhưng khi chính quyền trung ương La Mã suy yếu, vị thế của Giáo hội Công giáo là định chế kiên vững duy nhất tại châu Âu.<ref name="autogenerated1994">{{chú thích sách|last=Koch|first=Carl|title=The Catholic Church: Journey, Wisdom, and Mission|year=1994|publisher=St. Mary's Press|location=Early Middle Ages|isbn=978-0-88489-298-4}}</ref> Trong tình trạng bất ổn khi đế quốc dần [[sự suy tàn của Đế quốc La Mã|suy tàn]], các [[tu viện]] xuất hiện kịp thời đã bảo tồn ngôn ngữ viết và một phần [[truyền thống cổ điển]].<ref>{{chú thích sách|editor1-last=Brooke|editor1-first=John H.|editor2-last=Numbers|editor2-first=Ronald L.|title=Science and Religion Around the World|date=2011|publisher=Oxford University Press|location=New York|isbn=978-0-195-32819-6|pages=71|url=https://books.google.com.vn/books?hl=vi&id=W6HPW1TodZwC&q=%22preserve+literacy%22#v=snippet&q=%22preserve%20literacy%22&f=false}}</ref> Cho tới [[Thời kỳ Khai minh]],<ref>{{chú thích sách|last=Koch|first=Carl|title=The Catholic Church: Journey, Wisdom, and Mission|year=1994|publisher=St. Mary's Press|location=The Age of Enlightenment|isbn=978-0-88489-298-4}}</ref> văn hóa Kitô giáo đã dẫn dắt [[triết học]], [[văn học]], [[nghệ thuật]], [[âm nhạc]] và [[khoa học]].<ref name="autogenerated1994"/><ref>{{chú thích sách|last=Dawson|first=Christopher|title=Crisis in Western Education|year=1961|isbn=978-0-8132-1683-6|edition=reprint|first2=Glenn |last2=Olsen}}</ref> Cách riêng, Kitô giáo sau này đã phát triển các chuyên ngành tương ứng của mình.
 
Kitô giáo có một ảnh hưởng quan trọng lên [[giáo dục]], khoa học và [[y học]] khi mà giáo hội đã tạo dựng nên các nền tảng của hệ thống giáo dục phương Tây,<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/115240/Christianity/67592/Forms-of-Christian-education Encyclopædia Britannica] Forms of Christian education</ref> cùng với đó Kitô giáo là nhà bảo trợ cho việc hình thành các [[đại học thời Trung Cổ|đại học]] trong [[thế giới phương Tây]] khi mà [[viện đại học]] thường được xem là một thể chế có nguồn gốc Kitô giáo thời [[Trung cổ]].<ref name="Rüegg, Walter 1992, pp. XIX">Rüegg, Walter: "Foreword. The University as a European Institution", in: ''A History of the University in Europe. Vol. 1: Universities in the Middle Ages'', Cambridge University Press, 1992, ISBN 0-521-36105-2, pp. XIX–XX</ref><ref name=verger1999>{{chú thích sách |last=Verger |first=Jacques |date=1999 |authorlink=:fr:Jacques Verger|title=Culture, enseignement et société en Occident aux XIIe et XIIIe siècles |edition=1st |trans_title= |language=Pháp |location= |publisher=Presses universitaires de Rennes in Rennes |isbn=286847344X |url=https://openlibrary.org/works/OL822497W |accessdate=ngày 17 tháng 6 năm 2014 |ref=harv}}</ref> NhiềuXuyên suốt dòng lịch sử, nhiều [[Danh sách nhà khoa học- giáo sĩ Công giáo Rôma|giáo sĩ]] xuyên suốt dòng lịch sử đã có các cống hiến quan trọng cho khoa học, đặc biệt là các tu sĩ [[Dòng Tên]] có nhiều đóng góp đáng kể vào [[Lịch sử khoa học|sự phát triển của khoa học]].,<ref>Susan Elizabeth Hough, ''Richter's Scale: Measure of an Earthquake, Measure of a Man'', Princeton University Press, 2007, ISBN 0691128073, [http://books.google.com/books?id=rvmDeAxEiO8C&pg=PA68 p. 68.]</ref><ref>{{chú thích sách |last=Woods |first=Thomas E.|authorlink=Thomas Woods|year=2005 |title=How the Catholic Church Built Western Civilization |location=Washington, DC |publisher=Regnery |isbn= 0-89526-038-7}}</ref><ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/302999/Jesuit Encyclopædia Britannica] Jesuit</ref> hoạt động trong lĩnh vực khoa học và có nhiều đóng góp quan trọng cho [[Lịch sử khoa học|sự phát triển của khoa học]].<ref>Hannam, James (2009). ''God's Philosophers: How the Medieval World Laid the Foundations of Modern Science''. Icon Books.</ref><ref>Wallace, William A. (1984). ''Prelude, Galileo and his Sources. The Heritage of the Collegio Romano in Galileo's Science''. N.J.: Princeton University Press.</ref> Ảnh hưởng của Kitô giáo lên nền văn minh có thể kể đến [[phúc lợi xã hội]],<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/115240/Christianity/67594/Church-and-social-welfare Encyclopædia Britannica] Church and social welfare</ref> thành lập các [[bệnh viện]],<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/115240/Christianity/67597/Care-for-the-sick Encyclopædia Britannica] Care for the sick</ref> [[kinh tế]] (như [[đạo đức lao động Tin Lành]]),<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/115240/Christianity/67599/Property-poverty-and-the-poor Encyclopædia Britannica] Property, poverty, and the poor,</ref><ref>{{chú thích sách|last=Weber|first=Max|title=[[Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản]]|year=1905}}</ref> [[chính trị]],<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/115240/Christianity/67577/Church-and-state Encyclopædia Britannica] Church and state</ref> [[kiến trúc]],<ref name= BF>Sir [[Banister Fletcher]], ''History of Architecture on the Comparative Method''.</ref> [[văn học]]<ref>Buringh, Eltjo; van Zanden, Jan Luiten: "Charting the "Rise of the West": Manuscripts and Printed Books in Europe, A Long-Term Perspective from the Sixth through Eighteenth Centuries", ''The Journal of Economic History'', Vol. 69, No. 2 (2009), pp. 409–445 (416, table 1)</ref> và đời sống [[gia đình]].<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/115240/Christianity/67603/The-tendency-to-spiritualize-and-individualize-marriage Encyclopædia Britannica] The tendency to spiritualize and individualize marriage</ref>
 
Các [[Kitô giáo Đông phương|Kitô hữu Đông phương]], nhất là tín hữu [[Cảnh giáo]], đã đóng góp cho [[Thời đại Hoàng kim Hồi giáo|nền văn minh Hồi giáo]] Ả Rập dưới các triều đại [[Nhà Ummayad]] và [[Nhà Abbas]] với việc dịch tác phẩm của các [[Triết học Hy Lạp cổ đại|triết gia Hy Lạp cổ đại]] sang [[tiếng Syriac]] và sau đó là [[tiếng Ả Rập]].<ref>Hill, Donald. ''Islamic Science and Engineering''. 1993. Edinburgh Univ. Press. ISBN 0-7486-0455-3, p.4</ref><ref>{{chú thích sách|title=The Legend of the Middle Ages|author=Brague, Rémi|url=http://books.google.com/?id=c8YjEkLPXNYC&printsec=frontcover&dq=isbn:9780226070803#v=onepage&q=House%20of%20Wisdom&f=false|accessdate=11 Feb 2014|isbn=9780226070803|page=164|date = ngày 15 tháng 4 năm 2009}}</ref><ref>Ferguson, Kitty [http://books.google.com/books?id=trM7NJz011oC&pg=PT100&dq=preserve+ancient+knowledge+syria&hl=en&sa=X&ei=9DwJUsuGNsbyrAGIyYC4Bw&ved=0CDwQ6AEwAw#v=onepage&q=preserve%20ancient%20knowledge%20syria&f=false Pythagoras: His Lives and the Legacy of a Rational Universe] Walker Publishing Company, New York, 2008, (page number not available – occurs toward end of Chapter 13, "The Wrap-up of Antiquity"). "It was in the Near and Middle East and North Africa that the old traditions of teaching and learning continued, and where Christian scholars were carefully preserving ancient texts and knowledge of the ancient Greek language."</ref> Họ cũng là những nhân vật ưu tú trong [[triết học]], [[khoa học]], [[thần học]] và [[y học]].<ref>Rémi Brague, [http://www.christiansofiraq.com/assyriancontributionstotheislamiccivilization.htm Assyrians contributions to the Islamic civilization]</ref><ref>Britannica, [http://www.britannica.com/EBchecked/topic/409819/Nestorian Nestorian]</ref>